Đàm Trung Phán

Những bài viết …..

Tag Archives: Giáo Dục

CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG (COMMUNITY COLLEGE SYSTEM) TẠI ONTARIO, CANADA.

Rất nhiều cha mẹ, ngay cả các vị giáo sư Trung học tại Ontario thường chỉ thích cho con mình hay học trò mình đi học Đại Học (University) thay vì Cao Đẳng (College). Bài viết này được dựa theo những kinh nghiệm tai nghe mắt thấy để làm sáng tỏ một số vấn đề trong Chương Trình Giáo Dục Hậu Trung Học (Post Secondary Education) liên quan tới các trường Colleges tại tỉnh bang Ontario, Canada.

Các colleges (Trường Cao Đẳng) tại Ontario còn được gọi là Community College (tạm dịch là Đại Học Cộng Đồng) hay Colleges of Applied Arts and Technology (tạm dịch là Cao Đẳng Bách Nghệ). Các Chương Trình (hay Ngành nghề, Programs) của Colleges đi sát với tính cách thực tiễn (Practical, Hands on) của các ngành nghề chuyên môn trong Công Kỹ Nghệ trong khi Đại Học đào tạo sinh viên theo tiêu chuẩn nặng về lý thuyết và tổng quát (theoretical, general). Nói một cách khác, phần lớn các Sinh viên sau khi tốt nghiệp College có thể sắn tay áo làm việc liền với các cơ sở, theo tinh thần “ Mì Ăn Liền” của người Việt chúng ta vậy!

Tỉnh bang Ontario có 25 Colleges. Mỗi College lớn tại thành phố như Toronto có khoảng trên 10 ngàn Sinh Viên Toàn Thời Gian (Full Time students) và trên 40 ngàn Sinh Viên Bán Thời Gian (Part Time students). Hàng năm mỗi Sinh Viên đều phải đóng tiền học nhưng số học phí không đủ để College trang trải các phí tổn. Chính phủ Liên Bang Canada và Tỉnh Bang Ontario phải cung cấp ngân khoản cho mỗi College bằng 2 số tiền học phí của tất cả sinh viên. Mỗi sinh viên ngoại quốc (International student) phải đóng học phí khoảng 11 ngàn Gia Kim cho mỗi một năm học, theo giá biểu của năm 2002 . Sinh viên Immigrant hay Sinh Viên có quốc tịch Canada có thể mượn tiền Chính Phủ để đi học college.

Sau đây là Website của 15 trong số 25 Colleges của tỉnh bang Ontario nhận sinh viên ngoại quốc vào học. Xin quý vị vào đọc để có thêm ít nhiều chi tiết khác mà chúng tôi không thể nêu lên trong bài viết này được:

https://www.google.ca/search?q=community+colleges+in+ontario&sxsrf=AOaemvKuAlirAcrRCE4Fbfp89pl7s0fCcQ%3A1632234967774&source=hp&ei=1-1JYc2GLODW1sQPtr6QyAQ&iflsig=ALs-wAMAAAAAYUn756qj4xU7o5FeWL2D8gHIp8SkMLsV&oq=Community+colleges&gs_lcp=Cgdnd3Mtd2l6EAEYATIFCAAQywEyBQgAEMsBMggIABDJAxDLATIFCAAQywEyBQgAEMsBMgUIABDLATIFCAAQywEyBQgAEMsBMgUIABDLATIFCAAQywE6DgguEIAEEMcBEKMCEJMCOgUIABCABDoLCC4QgAQQxwEQowI6CwguEIAEEMcBENEDOgUILhCABDoECCMQJzoICAAQgAQQyQM6CAguEMsBEJMCOgsILhDHARCjAhDLAToLCC4QxwEQrwEQywE6CwguEMcBENEDEMsBOg4ILhDHARCjAhDLARCTAjoFCC4QywFQyx5YiVlg6YQBaABwAHgAgAGRB4gBoR6SAQwwLjEyLjQuMS42LTGYAQCgAQE&sclient=gws-wiz

Được mệnh danh là Trường Bách Nghệ, mỗi College lớn dậy từ 80 đến 130 các ngành nghề (Programs) khác nhau.

Bốn trường lớn nhất trong tỉnh bang Ontario là Seneca College, Humber College, Centennial College và Sheridan College. Cả 4 trường này đều nằm trong vùng Đại Đô Thị Toronto. Số sinh viên của mỗi trường này có từ 12 tới 16 ngàn Sinh Viên Full Time và từ 40 tới 100 ngàn Sinh Viên Part Time . Sheridan College rất nổi tiếng trên thế giới với ngành Computer Animation/Computer Graphics. Đặc biệt hơn nữa là Trường La Cité Collégiale tại Ottawa lại dậy hoàn toàn bằng tiếng Pháp!

Có rất nhiều Chương Trình Học (hay ngành nghề, Programs) trong các Phân Khoa khác nhau. Ví dụ như: Chương Trình Điện Toán (Computer Technology Program) trong Phân Khoa Kỹ Thuật, Ngành Báo Chí (Journalism Program) trong Phân Khoa Truyền Thông, Ngành Y Tá ( Nursing Program) trong Phân Khoa Y Tế …Các chương trình này luôn luôn được cập nhật hóa để đáp ứng được những nhu cầu mới nhất của Công Kỹ Nghệ .

Cách tổ chức hành chánh của College cũng chẳng khác Đại Học cho lắm. Tựu chung, mỗi College đều có:

 Ban Chỉ Đạo (Board of Governors / Directors),
 Viện Trưởng (President),
 Vài Phó Viện Trưởng (Vice Presidents),
 Khoa Trưởng (Deans),
 Giám Đốc (Chairpersons),
 Trưởng Phòng (Co-ordinators / Department Heads hay Giáo Sư Trưởng Phòng),
 Giáo Sư (Faculty / Teaching Staff: Full Time Professors and Part Time/Sessional Professors),
 Nhân Viên hành chánh/Nhân Viên Kỹ Thuật (Support Staff).

Các thành viên của Ban Chỉ Đạo (ngoại trừ các thành viên như: Viện Trưởng, Đại Diện Ban Giảng Huấn, Đại Diện nhân viên phụ tá , Đại Diện Sinh Viên) đều được Chính Phủ Tỉnh Bang đề bạt cho mỗi nhiệm kỳ là 2 năm . Họ là những người rất thành đạt và có tiếng tăm trong xã hội và làm việc không ăn lương với nhà trường. Với nhiều kinh nghiệm quý báu và thế lực rộng lớn trong xã hội, họ đã là những đầu não đóng góp rất đáng kể vào sự bành trướng mau chóng và mạnh mẽ của các Colleges trong 30 năm qua. Họ đã là những người đặt kế hoạch ngắn hạn và dài hạn để vị Viện Trưởng thi hành trách nhiệm trong công việc hàng ngày. Tuy nhiên, các nhân viên/giáo sư nhà trường và các sinh viên Toàn Thời Gian vẫn có quyền lên tiếng phản đối kế hoạch của Ban Chỉ Đạo, vì vậy Ban Chỉ Đạo cũng phải lắng nghe các tiếng nói này. Ban Chỉ Đạo cũng đã thường đề nghị với chính phủ giúp đỡ thêm ngân sách cho nhà trường.

Vị Viện Trưởng được Ban Tuyển Chọn Viện Trưởng (President Selection Committee) tuyển chọn dựa theo nhu cầu chính yếu của College trong thời điểm đó. Các Viện Trưởng cần có những cá tính đặc sắc như Khả Năng Thương Lượng, biết cách tổ chức hữu hiệu và quy mô, biết cách điều hành ngân quỹ để tránh thâm thủng, biết cách hợp tác (partnership) với Công Kỹ Nghệ hay các Đại Học … Vị Viện Trưởng nhiều khi cũng cần có kinh nghiệm giảng dậy tại College hay Đại Học, nhất là phải có tài lãnh đạo và tiên đoán được những kế hoạch lớn cho tương lai …

Với những con số hàng trăm ngàn Sinh Viên toàn thời gian và bán thời gian tích lũy trong 30 năm vừa qua, với hàng ngàn nhân viên và giáo sư toàn thời gian và bán thời gian và đồng thời các chương trình lại hay được cập nhật hóa hàng năm , hệ thống hành chánh của mỗi College ở Ontario, Canada càng ngày càng trở nên phức tạp . Hệ thống Điện Toán của nhà trường vừa để cho Ban Hành Chánh sử dụng, vừa để cho Sinh Viên thực tập ngày đêm nhiều khi đã gây ra biết bao trở ngại, nhất là trong 10 năm qua rất nhiều các chương trình học (Programs) đã sử dụng biết bao nhiêu là softwares trong các phòng ốc trang bị với hệ thống Computers . Cách tổ chức Hành Chánh của Colleges trở nên rất tinh vi và phải hữu hiệu để nhà trường không thâm thủng ngân quỹ trong niên học. Trong vài năm trước khi tôi về hưu non tại Centennial College, Hệ Thống Hành Chánh đã thay đổi rất nhiều trong một thời gian khá ngắn hạn, nhất là sau những lần cắt bớt nhân viên (downsizing) những mong làm sao cách làm việc có “hiệu lực” hơn nhưng thực sự cũng đã gây biết bao các nhức nhối và khổ tâm cho nhiều nhân viên và giáo sư còn sống sót sau những vụ “thanh trừng” này! Chung quy cũng chỉ vì chính phủ Liên Bang và Tỉnh Bang càng ngày càng cắt xén ngân quỹ trong khi số sinh viên đi học càng đông và nhà trường lại không dám tăng học phí của sinh viên!

Cách tổ chức của mỗi College có thể khác nhau đôi chút, nhưng thường thì Vị Viện Trưởng của mỗi College cần có sự trợ giúp đắc lực của:

–Phó Viện Trưởng Đặc Trách về Điện Toán, Thông Tin, Kế Hoạch
— Phó Viện Trưởng Đặc Trách về Giảng Dậy
— Phó Viện Trưởng Đặc Trách về Sinh Viên và Xã Hội
— Phó Viện Trưởng Đặc Trách về Hành Chánh và tài Chánh

Mỗi College có nhiều Phân Khoa (Faculties hay Schools) khác nhau . Có Phân Khoa Học Nghề (Apprenticeship Faculty/School), có phân Khoa Học Chữ (Academic Faculty/School). Phần lớn các Colleges đại loại có các phân khoa sau đây:

–Văn Khoa Ứng Dụng (Faculty/School of Applied Arts)
–Thưong Mại (Faculty/School of Business)
–Y tế (Faculty/School of Health Sciences)
–Khoa Học, Kỹ Thuật (Faculty/School of Technology and Applied Sciences)
–Vận Chuyển (Faculty/School of Transportation).
–Dịch Vụ Xã Hội (Faculty/School of Social Services)
–Truyền Thông (Faculty/School of Communications)

Đứng đầu của mỗi phân khoa là vị Khoa Trưởng (Dean hay Academic Advisor). Mỗi Khoa Trưởng lại có vài Phụ Tá Khoa Trưởng (Chairpersons hay Managers) vì mỗi Phân Khoa thường có rất nhiều các ngành học (programs) khác nhau . Thí dụ như Phân Khoa Kỹ Thuật và Khoa Học Áp dụng tại Centennial College, phân khoa mà tôi đã dậy trong 32 năm, có các ngành sau đây: Điện Tử (Electronics Engineering Technology), Điện Toán (Computer Systems Technology), Sửa và Bảo Trì Máy Điện Toán (Computer Repair and Maintenance), Cơ Khí (MechanicalEngineering Technology), Khuôn Mẫu (Metal Machining-Tool and Die Maker), Vẽ Sáng Tạo Máy Móc (Computer Aided Design and Manufacturing ), Ngành Sinh Vật (Biological Technology), Người Máy và Kỹ Thuật Tự Động (Automation and Robotics Technology), Ngành Bảo Vệ Môi Sinh (Environmental Protection Technology) , Phụ Tá Phòng Thí Nghiệm (Lab Assistant ) .

Đứng đầu của mỗi Department (trên phương diện hành chánh, mỗi ngành hay chương trình học được gọi là Department) là Vị Giáo Sư Trưởng Phòng ( Co-ordinator / Department Head) đảm trách các môn học ( courses hay subjects), các giáo sư, phân chia các môn dậy cho Giáo sư, thu nhập sinh viên, gặp gỡ sinh viên trong Department và chăm lo các công việc hàng ngày của Department . Giáo Sư Trưởng Phòng cũng dậy một số giờ để vẫn giữ tư cách của một Giáo Sư và để gần gũi với Sinh Viên.

Nói tóm lại, mỗi Khoa Trưởng có các nhân viên dưới quyền như Phụ Tá Khoa Trưởng (Chairs hay Chairpersons), Trưởng Phòng (Co-ordinators), Giáo Sư Toàn Thời Gian (Full Time Professors) và Giáo Sư Bán Thời Gian ( Part Time Professors hay Sessional Professors) , Thư Ký (Administrative Assistants, Secretarial Support Staff ), chuyên viên Kỹ Thuật (Technical Support Staff).

Muốn biết thêm chi tiết của College nào, Quý vị có thể đọc chi tiết trong cuốn Full Time Calendar của College đó. Nếu dùng Internet, Quý vị có thể bấm vào, thí dụ như :

CENTENNIAL COLLEGE

SENECA COLLEGE

(Hai College này tương đối lớn nhất tại Toronto và Ontario)

Sinh viên tại Colleges có rất nhiều quyền hạn nhưng đồng thời họ cũng có trách nhiệm riêng của họ. Sinh viên có quyền gặp riêng các Giáo Sư để hỏi thêm về những điều họ chưa hiểu rõ trong lớp học. Họ cũng có quyền hỏi các Giáo sư về cách chấm điểm của các bài Assignments (bài nộp trong năm), Test Papers (bài thi trong năm và cuối năm) đã được chấm xong và trả lại cho Sinh Viên. Sinh viên còn có quyền được gặp Giáo Sư Trưởng Phòng (Co-ordinators) để tham vấn về tương lai ngành nghề hay than phiền về cách dậy của các Giáo Sư hay cách chấm điểm của các Giáo Sư …Ngược lại, sinh viên nào làm mất trật tự trong lớp (như chửi thề, đánh lộn, to tiếng, say rượu …) hay bị bắt quả tang đã gian lận khi thi cử, các Giáo Sư có quyền mang sinh viên ấy ra Hội Đồng Kỷ Luật . Nếu phạm lỗi nặng như gây thương tích, Sinh Viên không những bị trục xuất khỏi nhà trường mà còn bị pháp luật trừng trị nữa.

Các Giáo Sư Toàn Thời Gian (Full Time Professors) được các Ban Tuyển Chọn (Faculty Selection Committee) xét đơn, phỏng vấn và chấm điểm rất kỹ càng. Phần lớn các Giáo Sư này, ngoài vấn đề bằng cấp đã có, đã từng là những chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong Công Kỹ Nghệ và phải có Kinh Nghiệm giảng dậy. Trong thập niên 80 và 90, rất nhiều các giáo sư Toàn Thời Gian được tuyển chọn sau khi họ đã dậy nhiều năm trong College với danh nghĩa Giáo Sư Bán Thời Gian (Sessional/Part Time Professors) để lấy kinh nghiệm giảng dậy . Chúng tôi đã có cái may mắn được là một thành viên của nhiều Ban Tuyển Chọn Giáo Sư trong thập niên 80 và 90. Chúng tôi còn nhớ, vào năm 1999 , chúng tôi đã là 1 trong 12 thành viên của Ban Tuyển Chọn Giáo Sư Anh Văn (English Selection Committee). Chúng tôi đã phải duyệt xét hơn 200 đơn xin việc (Résumés and Covering Letters). Ban Tuyển Chọn đã phải lập cách thức (Criteria) để duyệt xét các Résumés để đi đến chỗ “thanh lọc”. Hơn 30 Résumés đã được Ban Tuyển Chọn cùng đồng ý sẽ gửi hồ sơ tới để các ứng viên (candidates) sửa soạn và nộp Giáo Án ( Planned Lesson) cho một kỳ dậy thử (Mini Lecture) trong lớp mà “học trò” là Ban Tuyển Chọn . Lại một lần nữa chúng tôi phải lập cách thức chấm các Giáo Án của từng thí sinh để lấy 15 “thí sinh” vào vòng Trung Kết. Sau đó 15 ứng viên này đã thực sự dậy Anh Văn trước mặt Ban Tuyển Chọn. Cuối cùng, Ban Tuyển Chọn chấm điểm để lựa ra 3 “thí sinh” được điểm số cao nhất .Tất cả các thành viên của Ban Tuyển Chọn lặi cùng bàn cãi (debated) và “chấm điểm” một lần nữa để rồi đi đến quyết định tuyển chọn theo theo ngôi thứ 1, 2, 3. Người Trưởng Ban của Ban Tuyển Chọn có nhiệm vụ phải “check references” của 3 “thí sinh” này. Thú thực với quý vị độc giả là tôi chưa bao giờ từng thấy khó sử như lúc này vì cá nhân tôi thấy cả 3 vị này đều là những người rất sáng giá (bằng cấp rất cao, đã lãnh giải thưởng khi còn đi học Ðại Học, cách dậy rất giỏi, tính tình lại còn cởi mở … Họ có thể dậy cả English as a Second Language, English Communications và English Litterature luôn!) . Trong thâm tâm, tôi hy vọng là nhà trường sẽ thuê cả ba vị giáo sư này!

ĐIỀU NÊN BIẾT TRƯỚC KHI ĐI HỌC COLLEGE:

Không riêng gì người di dân (immigrants), mà ngay người dân bản xứ Canada cũng thấy do dự trước khi đi học Đại Học hay College. Học ngành gì để dễ kiếm việc về sau? Liệu mình có xin vào học được không? Được nhận vào, rồi sau đó, liệu mình có học ra trường được không vì vấn đề tài chánh và khả năng? Và con rất nhiều các câu hỏi khác!

Điều kiện nhập học College khá dễ so với Đại Học. Chỉ cần học xong lớp 12 ( thay vì lớp 13 cho các Đại Học) là quý vị có thể xin đi học College được. Nếu trên 21 tuổi mà chưa học xong lớp 12 ở Canada hay ngoại quốc, ai ai cũng có thể xin học College với điều kiện là phải thi môn Anh Văn và Toán, dưới tư cách là 1 “mature student”. Tùy theo khả năng của từng “Mature Student”, nhà trường sẽ cho họ học thêm Toán và Anh Văn. Tôi đã thấy có rất nhiều các sinh viên Canada đứng tuổi (va` dân Immigrants luôn nữa) đã nhập học theo diện “Mature Student”. Dĩ nhiên là họ ra trường chậm hơn chừng 1 hay 2 semesters nhưng còn tốt hơn là họ phải đi học lại Trung Học trước khi xin vào College. Nhập học theo dạng “Mature Student” rất tiện lợi cho người di dân vì College không bắt buộc sinh viên phải có điểm số TOEFL cao như Đại Học, chỉ cần thi môn Anh Văn và Toán của College mà thôi. Nếu thí sinh được kết quả tương đối khá của môn Anh Văn và Toán, họ sẽ được người Co-ordinator phỏng vấn và sau đó College sẽ cho biết kết quả . Nếu được thâu nhận, nhà trường sẽ sắp xếp các môn học đặc biệt cho mỗi “Mature Student” trong Semester đầu tiên và kế tiếp.

Cách hay nhất là người muốn đi học nên đến gặp thẳng người Co-ordinator để trình bầy hoàn cảnh của mình và hỏi thẳng người Co-ordinator về các môn học (courses), trình độ tối thiểu của Sinh Viên, cách tìm việc làm trong mùa hè và khi ra trường, ngành học đó có liên hệ gì với những công sưởng nào , muốn đi học thêm tại Đại Học về sau này sẽ được nhận vào Đại Học nào … Tưởng cũng nên nhắc là các Colleges có rất nhiều các Chương Trình Co-op ( Co-op programs , có nghĩa là Sinh Viên sẽ sẽ được gửi đi làm thực tập trong các Co-op Semesters và được trả lương khi đi làm). Các Colleges ăn đứt Đại Học về những Chương Trình Co-op này (ngoại trừ Waterloo University có Co-op) vì khi sinh viên ra trường đã có ít nhiều kinh nghiệm làm việc và vì vậy sẽ rất dễ kiếm được việc làm Full Time.

Kể từ cuối thập niên 90, rất nhiều Departments của Colleges đã thu nhập từ 20 đến 30% sinh viên đã tốt nghiệp Đại Học. Các sinh viên này được mênh danh là “Fast Track students” và được miễn khá nhiều các môn học đại cương. Sau khi họ đã hội đủ được 1 số môn học chính về ngành nghề (Technical subjects) , họ sẽ được gửi đi làm thực tập trong các Co-op Semesters ( khóa học dành riêng cho đi làm với Công Kỹ Nghệ) . Chắc quý vị cũng thắc mắc là “Tại sao đã tốt nghiệp Đại Học mà còn trở lại Colleges làm gì?” Xin thưa rằng là vì tuy họ đã có bằng Cử nhân (BA, BSc) hay đôi khi đã có Cao Học (MA, MSc) nhưng họ không có một ngành nghề rõ rệt (Vocational background) nên không kiếm được việc có đồng lương cao . Họ trở về Colleges để học được phần thực tiễn chuyên nghiệp của ngành nghề ( Hands on experience) và họ sẽ được gửi đi thực tập trong các ngành nghề chuyên môn tại Công Kỹ Nghệ , công sở , tư sở ….

Một điểm lợi nữa là thời gian đi học College nhanh hơn khi đi học Đại Học mà học phí lại còn rẻ hơn nữa. Tôi đã từng thấy Sinh viên trong lớp tôi dậy vừa đi làm Part time vừa đi học Full Time và họ cũng đã ra trường theo đúng hạn định. Tương đối, sau đã ra trường tại College, sinh viên dễ kiếm việc hơn các sinh viên đã tốt nghiệp tại Đại Học vì vấn đề Thực Tiễn của các Chương Trình học tại Colleges .

CÁC THÀNH QUẢ TAI NGHE MẮT THẤY CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM

Tôi chỉ dám nêu ra vài thí dụ điển hình mà chính mắt tôi được thấy trong những năm dậy học tại Centennial College trong bài này.

Phần lớn các sinh viên VN ra trường đúng thời hạn hơn so với các sinh viên bản xứ Canada, mặc dù họ gặp cản trở về sinh ngữ, văn hóa, sinh kế . Lý do chính là hầu hết các sinh viên Việt Nam chăm chỉ học hành và cố gắng ra trường để đi kiếm việc làm càng sớm càng tốt. Sau khi họ đã tốt nghiệp, họ rất làm cố gắng kiếm việc. Khi đi làm , họ làm việc siêng năng và mau được thăng quan tiến chức , tạo tiếng tốt cho Cộng Đồng người Việt chúng ta .

Tôi đã có cái may mắn dậy vài Sinh Viên VN trong ngành Công Chánh tại Centennial College . Các em học rất khá so với sinh viên gốc Canada . Tôi nhớ nhất 2 em : L. và Đ.

Tôi dậy em L. trong giữa thập niên 80. Điểm số Trung Bình của em là B+, vì các môn dính dáng tới Anh Ngữ đã kéo điểm em xuống . Lâu lâu tôi không thấy em ở trong lớp học, mà em cũng lại hay đến lớp hơi trễ nữa. Tôi vặn hỏi thì mới biết là rất nhiều đêm em đã phải đi làm đến 3 giờ sáng để tự nuôi thân và gửi tiền về giúp gia đình tại Việt Nam! Em cũng đã ra trường đúng hạn kỳ sau 3 năm học!

Khi em Đ. đến gặp tôi (lúc đó tôi là Co-ordinator của ngành Công Chánh) trong đầu thập niên 90 để chúng tôi “interview”, em đã học xong lớp 13 và em cũng đã được nhận vào 1 Đại Học ở Ontario, nhưng em quyết định học ngành Công Chánh tại Centennial College. Lý do chính là vì em muốn học xong cho nhanh để kiếm tiền gíúp cha mẹ và vì em cũng vừa mới lấy vợ! Em là một sinh viên xuất sắc nhất trong lớp. Em đã lĩnh giải thưởng của ngành Công Chánh tại Centennial College và em cũng đã giật giải thưởng của Hội Đường Xá Ontario (Ontario Gơd Roads Association) do chính ông bộ trưởng Giao Thông trao tặng. Tôi đã rất vui mừng đi dự lễ lĩnh giải thưởng này cùng với em: cả thầy và trò cùng là người Việt trong Xã Hội Đa Văn Hóa Canada! Vợ của em học ngành Kỹ Thuật Sinh Vật Học (Biological Technology), cùng trong phân khoa của chúng tôi. Em học cũng rất khá và được các đồng sự của tôi hay nhắc tới tên em. Vợ chồng em đã mang lại cho tôi nỗi vui mừng rất khó tả trong khi viết bài này.

Em L. và vợ chồng em Đ., cũng như hầu hết tất cả các sinh viên đủ mọi mầu da trong College chúng tôi, đã kiếm ra việc làm Full Time đúng theo ngành nghề các em theo học. Cũng có một số người sau khi đã ra trường phải đợi một thời gian mới kiếm ra được việc đúng như ý mình muốn. Nhưng cứ “có chí thì nên”, rồi các sinh viên này cũng dần dà kiếm ra được việc theo khả năng và số lương mà họ mong muốn mà thôi .

Trong thập niên 80 và 90, tôi thường đi dự các buổi lễ Phát Phần Thưởng hàng năm (Annual Award Night) của nhà trường. Các sinh viên ưu tú có điểm số cao nhất (Grade Point Average) trong các ngành học được Ban Giám Khảo nhà trường chọn là những Sinh Viên được nhận giải thưởng do các Giáo Sư, Công Tư sở, Kỹ Nghệ, Hội Đoàn …..trao tặng . Hầu như năm nào tôi cũng đọc thấy vài tên của sinh viên Việt Nam trong danh sách các Sinh Viên Ưu Tú này. Các đồng sự người Canada của tôi đã từng nói với tôi

” Điều làm chúng tôi ngạc nhiên và vui thú là hầu hết các sinh viên gốc Việt của nhà trường chúng mình, tuy bị gặp nhiều khó khăn về Anh Ngữ, cách hội nhập trong xã hội mới …nhưng rất nhiều sinh viên Việt Nam đã đạt được kết quả vượt bực. Chúng tôi xin chúc mừng Cộng Đồng Việt Nam của ông! Và xin ông cho chúng tôi biết lý do tại sao?”

Tôi chỉ biết nở một nụ cười hãnh diện và từ từ giải thích cho các đồng sự của tôi.

Trong cương vị Chủ Tịch Hội Phụ Huynh Học Sinh VN tại Toronto, tôi đã có dịp gặp gỡ và trao tặng Tấm Bằng Khen Thưởng cho rất nhiều các học sinh (cấp Trung Học) gốc Việt xuất sắc trong các lãnh vực Học Vấn, Sinh Hoạt Ngoại Khóa, Hoạt Động Cộng Đồng trong thập niên 90. Tôi cũng đã tham dự trong Quỹ Học Bổng Cộng Đồng Toronto từ năm 1992 và tôi đã đôi khi thấy ướt mi nhìn thấy tận mắt một vài em đã đạt được điểm số trung bình tới 98% cho những môn chính trong lớp 12 và 13. Không những vậy, một số lớn các em còn tham gia vào các Sinh Hoạt Ngoại Khoá và Sinh Hoạt Cộng Đồng nữa! Tôi đã đi tìm những hình ảnh đẹp đẽ này kể từ ngày tôi đi du học, lúc tôi mới 19 tuổi đầu ở nơi xứ lạ quê người!

Những thành quả tốt đẹp của các em học sinh Trung Học , của các sinh viên Cao Đẳng và Đại Học trong cộng đồng VN mà tôi đã mắt thấy tai nghe đã mang lại một nguồn cảm hứng cho tôi và tôi đã ghi chép lại vài cảm nghĩ trong bài thơ “ Tôi Đã Gặp” dưới đây :

Tôi đã gặp
Những người trong lứa tuổi yêu đương
Nơi các học đường.
Và trong bảng vàng
Tôi đã đọc được
Những tên Việt Nam quen thuộc:
Nguyễn, Lê , Trần , Hoàng , Vũ ….rất êm tai !

Buổi chiều nay, tuyết phủ ngập sân trường
Sinh viên lớp tôi đến từ các Đại Dương
Nhìn họ đang đắm chìm trong đề thi, sách vở
Tôi cầu mong quê hương tôi có ngày rạng rỡ
Cho tôi trở về với Mái Trường bên lớp trẻ Việt Nam!

Tôi hoàn toàn tin tưởng vào tài sức của người Việt chúng ta nhất là trên phương diện học vấn . Chỉ cần “có chí thì nên” mà thôi! Hệ thống Cao Đẳng của Canada rất hữu hiệu và đã mang lại nhiều thành quả rất khích lệ cho xã hội Canada. Một số quốc gia Trung Đông và Nam Mỹ đã dùng mô hình Hệ Thống Cao Đẳng của Ontario để tổ chức cho các trường Cao Đẳng của họ và họ cũng đã rất thành công trong ngành Giáo Dục cấp Cao Đẳng tại quốc gia họ. Mong rằng người Việt chúng ta sẽ có Hệ Thống Giáo Dục này sau khi quốc gia Việt Nam chúng đã thực sự có Tự Do , Hạnh Phúc cho tất cả mọi người !

Đàm Trung Phán
Giáo Sư Trưởng Phòng, ngành Công Chánh
Sáng Lập Viên và Giáo Sư thâm niên, ngành Bảo Vệ Môi Sinh
Centennial College
December 2002
Toronto, Canada

REFLECTION ON MY KARMIC VIETNAM-AUSTRALIA-CANADA JOURNEY

Phan Dam / Dam Trung Phan

My wife and I arrived at Vancouver Airport one late night in August 1969. Exhausted after two long flights, we were glad that we were finally in Canada, the land of our future.

While other passengers were happy and excited to meet their relatives and friends at the airport, we felt lonely and lost as we had no friends, no relatives here to pick us up and to guide us in the new country. We did not know where to stay for the night. We had just got married a few months in Australia before we landed here. In Sydney, we had many friends and our jobs, and now, here in Canada, we had just the two of us and less than $2,000 in our bank account.

I asked the Information Officer for the cheapest place to stay. Following her advice, we boarded the bus for the University of British Columbia, where we could rent a room in one of the residences. It was a dark night and on the bus, we both felt dead tired, rather sick, lonely, and uncertain about our future in this new city. Yes, we were now in Canada where, hopefully, we could lead a peaceful life but what would be next? In the previous few months, we had been busy with our wedding, immigration planning, packing our belongings and I had worked a lot of over time in order to save up as much money as possible…

We had a good sleep. The next morning, we went down for breakfast. The cafeteria reminded me of the time when I was still at the Universityof New South Wales in Sydney, Australia. Over there, I only had to concentrate on my part-time study, there was no worry about money or job, and I had so many friends to talk to whenever I needed some help. Here, in the new land, we had to start all over again.

We both were eager to look for a job as we did not have too much money left in our bank account. Jobs for professionals were very hard to find. I wrote many letters to various engineering firms in Vancouver, Victoria and other small towns in British Columbia. I made many phone calls trying my luck.

Having no job, our money in the bank account ran lower and lower and worst of all, in Vancouver, we did not know anyone close enough so that we could borrow the money from in the event that we ran out of it. We were so worried about our financial situation that we hardly bought any meat in order to spend the least amount of money possible. To entertain ourselves, we went to the public library to borrow books to read. My eyes were badly strained because I had been wearing a rather old pair of glasses for a long time. Having to buy a new pair of glasses for me did cause some great financial concerns for us. Some nights, my wife dreamed that we had found a full-time job. With some luck, she found a part-time job first, working 20 hours a week as a sales clerk in a shoe department. We were so happy receiving her first paycheck, even though there was not so much money in it.
Realizing that we could never find a professional job in Vancouver, we headed for Toronto at the end of October 1969. This time, we felt much better as our friends picked us up at the airport. They sheltered us for a week. They drove us around Toronto to look for a place to live. They showed us all the transportation routes and various places to look for a job in this new city.

I had worked for Water Conservation and Irrigation Commission for a couple of years in Sydney. I enjoyed my work as a dam design engineer and I wished that I could continue working in that field here again in Canada. I must have applied for more than 250 jobs in different places in Canada. I was offered a job looking for mines in Manitoba, where the temperature could go down to – 50 degrees Fahrenheit in the winter. I consequently had to decline the job offer. After 11 months of job-hunting, I ended up working as a laboratory demonstrator in the Civil Engineering Technology laboratories at Centennial College in Toronto. I had to design and to teach the laboratory experiments dealing with testing soils, concretes, cements, aggregates, sands, asphalts, steels, aluminum alloys, and timber. I was quite familiar with the material-testing field as I had done most of the material testings when I worked in the two summers in Australia. I started to appreciate my Civil Engineering Program that I took at the University of New South Wales, particularly my summer work experience as a part of its curriculum.

http://www.pbase.com/tamlinh/mai_truong__getting_involved_with_education

(Phan Dam’s  digital archives)

Before leaving Saigon for Australia on a Colombo Plan scholarship, I was so eager to go overseas to study, but I never realized that I had a lot to learn all by myself in order to adjust to a new environment, a new language and a new culture. Some typical examples:

On the plane from Saigon to Sydney, for breakfast, I ate everything first except for my corn flakes!

When crossing some streets in Sydney in the first few days, I was almost hit by cars as I tended to look at the wrong directions because, coming fromVietnam, I was so used to keeping to the right. Ironically, when we arrived in Vancouver, when crossing the streets, I was almost hit by oncoming cars as I was so accustomed to keeping to the left in Australia while in Canada, people keep to the right!

In Viet Nam, I had known the Metric System of Measurement only. In my first Physics tutorial class at the University of New South Wales, it was hard enough for me to understand Aussie English, I also had no idea how long one foot was, not to mention one mile and how really heavy one pound was! I had to learn the Imperial System of Measurement as if I had learned the English alphabet in my Grade 6 in Saigon, South Viet Nam!

In my first few months in Sydney, I was scared to death to talk to Australians over the phone because without seeing the person’s face, I couldn’t guess what he/she was talking about!

I very much appreciated the 3 months of learning English, the Australian ways of life, Mathematics, Workshop and Chemistry offered by the Commonwealth Office of Education before we were sent to the University. This transition period was very helpful for me to adapt myself to the new country, language, and culture so that I could cope with many challenges in my first year at the University. I also picked up invaluable interpersonal skills, Australian ways of life when I stayed at Basser College among Australian and foreign students and when I was sent to work in the Australian Outback in two summers.

Living away from home for the first time and away from our Vietnamese society, I felt happy whenever I met my  Vietnamese friends. I enjoyed participating in the activities organized by the Vietnamese Overseas Students’ Association (VOSA) and the Vietnam Australia Association (VAA). During this time period, I could never realize the benefits of getting involved with these extra curricular activities until many years later after I had immigrated to Canada.

I became a full-time faculty in 1977 and since then, I had to teach a new technical subject almost every semester. I was joint-appointed to teach subjects in various departments such as: Electrical/Electronics, Mechanical, Chemical, Architectural, Robotics, Biological and Environmental. There were many nights that I had stomach ulcers due to stress, lecture and test paper preparations for these new courses. I had to teach myself first in a very short time period in order to prepare for my lecture notes!

Canadian community college students in the Engineering Technology field are trained to do all the practical work and upon graduation, they are expected to be ready for the job market right away. I could not depend on the text books or reference books alone as the course contents depend on the equipments, procedures, drawings, standards, specifications and new technology. Fortunately, I had a network of friends and college graduates to help me in getting the information for me so that I could teach myself first in order to prepare for the lecture notes and their assignment/lab/test components.

Had I not been trained in Australia and gone through tough challenges as I mention above, I would not have been confident and resilient enough to train myself in coping with these new technical subjects.

Dealing with students, their parents, college staff, engineering personnel and student recruitment were another thing. Thanks to the interpersonal skills that I had gained in my years of studying and working in Australia, and thanks to my “on-the-job” training at the college, I was able to cope with career challenges pretty well. I progressed steadily; I became a full College Professor and then Department Head earlier than I could expect. In my 32 years of teaching, I never felt bored with my college and community work. Students, graduates, colleagues and college staff were just like an extended family to me. Many times, during my summer vacation, I came back to the college to meet our graduates, potential students, colleagues and to socialize.

I helped students and graduates of our Civil and Environmental programs form their clubs in order to create a link among students and graduates and to invite guest speakers for our programs. In the eighties, I was invited to talk to many groups of Vietnamese refugees/immigrants or non-Vietnamese immigrants who were interested in going back to college to get their Canadian education. As a result, our College admitted quite a number of Vietnamese students in the Fall semesters. I was the Founder and Adviser of the Centennial College Vietnamese Students and Graduates’ Association in 1985. I became the President of Toronto Vietnamese Canadian Parents’ Association for 8 years then Founding Member and President of Society of Vietnamese Canadian Professionals of Ontario for 2 years. I was a Founding Member and Co-Chair for 2 years of “Vietnamese Canadian Community Scholarship Fund” to annually select and to officially recognize 10 First Year University Students (of Vietnamese origin) in Ontario for their excellent academic achievements.

There is no doubt in my mind that I had originally picked up the confidence, organization skills and interpersonal skills from the time when I was the treasurer of VOSA and a committee member of VAA in Sydney, Australia. As a faculty member and as an active community volunteer inToronto, I was able to get students, graduates and other people to help me in organizing these extra-curricular activities and volunteer work!

I had seen the benefits of my practical experience as gained in the summer months when I was sent to work in the outback of Australia. As the Civil Technology Department Head, I pushed forward to implement the Civil Technology Co-op program and the Environmental Co-op program in the eighties and the nineties respectively. Our students were successfully sent to work with pay in their Co-op semesters!

I took early retirement to have more time for myself. Upon reflection, I treasure my Colombo Plan Scholarship. I am certain that without this scholarship, I would not have been here in Canada and ended up as a Professor Emeritus at Centennial College when I retired in 2002.

I am amused, and also rather proud, to be called by some of my Canadian friends as “that Vietnamese guy who came from Down Under and who speaks English with his Vietnamese and Australian accents!”

I am grateful that South Vietnam and Australia had awarded me the Colombo Plan scholarship. I am thankful thatAustralia had given me my invaluable and significant education and training. I also very much appreciate that Canada had accepted me in as a landed immigrant and had given me the chance to prove myself as an educator!

Please take a look at my article in English which appears on the Canadian Government website where, in English and Vietnamese I also verbally thank South Viet Nam, Australia, and Canada:

http://www.passagestocanadaarchive.com/da/passages.asp?coll=72

Once again, thank you: Viet Nam, Australia and Canada – for sheltering me during my earthly journey!

Phan Dam

Professor Emeritus

CentennialCollege,

Ontario,Canada

April 14, 2005

DĨ VÃNG MỘT THỜI NƠI ĐẤT ÚC

Sydney Opera house-IMG_4454

25/06/20XX

Mấy hôm nay tôi rất muốn ghi chép lại những kỷ niệm hồi đi học bên Úc nhưng không có thì giờ nên bây giờ tôi mới ngồi bắt đầu viết trong khi chờ đợi họ sửa xe cho tôi tại một “garage”.

Ngày hôm qua (24/06/) đúng là ngày cháu nội thứ hai của tôi, ED, được một tháng. Ông nhớ cái ngáp của cháu chi lạ. Được bố cháu và chú SD cho biết là cháu vẫn hay ăn, chóng lớn, khóc to và ngáp dài! Thế là ông nội vui rồi.

Cách đây một tháng, NHM, bạn cùng khóa đi Úc với tôi báo tin qua email rằng hắn sẽ qua Queen’s University tại Kingston, Ontario, Canada để dự hội nghị về Đồ Ăn (Food Technology). Hắn đang dậy “Food Technology” tại một Ðại Học (ÐH) bên Úc Đại Lợi nên nhân dịp này anh chàng nói với trường rằng hắn sẽ sang để “present his paper” (diễn thuyết) và để gặp một số các Giáo Sư nhiều nơi trên thế giới trong kỳ hội nghị này. Ðó cũng là một cái cớ để ĐH bao thầu cho chuyến viễn du Bắc Mỹ này của bạn tôi. Thực tình là để hắn sang Canada thăm một số bạn bè đã du học bên Úc cùng với chúng tôi, sau đó hắn bay qua Hoa Kỳ và London để thăm gia đình trước khi bay về lại Úc.

Giữa tháng 5, 20XX, tôi hăm hở lái xe ra phi trường Pearson International tại Toronto để đón M. Tôi náo nức đứng đợi, chỉ sợ là mình sẽ “lạc” mất hắn. Thế rồi một dáng điệu quen thuộc lù dù hiện ra giữa đám đông, tôi gọi to tên hắn và vẫy tay tíu tít. M. nhận ra tôi và kéo hành lý chạy vội đến gặp tôi. Hắn trông vẫn vậy và dĩ nhiên là hắn cũng như tôi đều mập ra.

– Tôi nhớ là ngày xưa ông P. cao lắm mà?

Tôi cười trả lời hắn:

– Thì tôi vẫn “cao” như vậy nhưng vì “trổ mã bề ngang” nên ông bị “optical illusion” (“loạn thị”) đó mà!

Hai đứa rộ ra cười với nhau, tiếng cười đầu tiên sau 36 năm mới lại gặp lại nhau.

Tôi đã ra phi trường đón bạn bè và bà con rất nhiều lần nhưng lần ra đón M. tại phi trường có lẽ là lần đầu tiên làm tôi xao động nhiều nhất vì giữa hai chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm với nhau từ khi hai đứa tụi tôi sang Úc vào cuối năm 1961. Rồi tôi rời đất Úc, lẳng lặng bỏ đi biền biệt sang lập nghiệp tại “xứ lạnh tình cóng” Canada vào Mùa Thu 1969. Chúng tôi mất liên lạc với nhau trong rất nhiều năm sau đó.

Gặp hắn làm tôi được trở về với dĩ vãng, trở về với giai đoạn sôi nổi nhất của cuộc đời chúng tôi. M. đã là chứng nhân của đời tôi trong giai đoạn từ cuối năm 1961 đến tháng 8, 1969. Tôi cũng là kẻ đi chung đường với hắn trong giai đoạn này và cũng đã là một chứng nhân của đời hắn.

Hai đứa tụi tôi cùng khoảng 20 sinh viên VN đã rời Saigon vào một buổi chiều cuối năm 1961 để lên máy bay Air France bay sang Sydney. Chúng tôi tuổi chừng 18,19 và mới học sơ sơ tại các đại học bên Việt Nam rồi được trúng tuyển học bổng Colombo Plan sau kỳ khảo sát Anh Ngữ và lựa chọn theo kết quả học lực trong hai kỳ thi Tú Tài 1 và Tú Tài 2. Chúng tôi được luyện Anh Văn trong một thời gian ngắn bởi giáo sư Brent, người Úc gốc Đức, tại Saigon.

30/06/20XX

Hôm nọ đang viết dở thì họ đã sửa xe xong nên tôi phải ngưng viết để lái xe về nhà lo chạy việc.
Sáng hôm nay, “xếp bề trên” BN của tôi phải đi khám sức khỏe toàn diện từ 9 giờ sáng tới 3 giờ chiều. Sau khi lái xe đưa BN đi Bác Sĩ, bác tài bèn ghé vào hiệu cà phê Tim Horton uống một ly cà phê. Ngon tuyệt trần đời. Vừa nhâm nhi cà phê một mình, vừa suy nghĩ về vụ M. sang Canada thăm tôi, tôi nẩy ra ý định: “Lâu rồi mình chưa có dịp đi bộ và suy nghĩ một mình, sáng nay cơ duyên tốt đã đến với tôi!” Bèn đóng nắp ly cà phê đang uống dở và lái xe ra bờ hồ Ontario (Lake Ontario). Lôi ra trong thùng xe cái ghế gập mà tôi đã mua từ năm ngoái, luôn luôn được để trong thùng xe trong những tháng Mùa Hè và để được bác tài ngả ra mà ngồi tại những nơi nào nên thơ. Tôi chọn ngay một nơi có bóng mát, trước mặt là nước hồ, bên kia hồ là những căn nhả lấp ló sau lùm cây. Ngay trước mắt tôi là những tảng đá mà Nha Kiều Lộ đã đặt chồng chất lên nhau xung quanh hồ. Trời đang mùa hè, gió hiu hiu thổi buổi sáng nên tôi không bị ruồi muỗi bu quanh. Thật là thần tiên, bỗng đâu tôi nhớ lại chuyến thăm Panama vào muà hè năm trước.

Xin trở lại câu chuyện đất Úc ngày xưa.

Tuy tất cả dân Colombo Plan chúng tôi đã được luyện Anh Văn tại Saigon nhưng khi mới sang đến Úc mà nghe tiếng Anh người Úc nói thì thật đúng như là “vịt nghe sấm” vậy.
Một người bạn Mã Lai gốc Tầu đã nói với bọn tôi về tiếng Anh giọng Úc:

– When I first came to Australia, the land lady came out to greet me and she said: “So you came here “to die”, at nine in the morning?”

I replied:
– Oh no, Madame, I came here today, to study but not to die!

(Khi tôi mới đến Úc, bà chủ nhà ra đớn tiếp tôi, lời bà nói tôi nghe như là:” Anh tới Úc lúc 9 giờ sáng để anh …”chết”, có phải không?” Tôi trả lời là:” Dạ thưa bà, tôi tới Úc lúc 9 giờ sáng hôm nay để đi học, chứ không phải để … tôi chết đâu ạ!)

Cả bọn rộ ra mà cười vì cái giọng (accent) có một không hai của người Úc khi họ nói tiếng Anh. Sợ nhất là khi mới tới Sydney mà phải nói chuyện qua điện thoại với người Úc, chả là vì họ không nhìn thấy nét mặt ngẩn tò te của mình, họ cứ thao thao bất tuyệt thì mình càng…”tuyệt vọng” vì mình có nghe nổi họ nói gì đâu cơ chứ!

Tại Sydney, trong ba tháng đầu năm 1962, khi đi học Anh Văn hay đi chơi đâu chúng tôi thường cùng đi với nhau cho chắc ăn. Này nhé: mới chân ướt, chân ráo tới Sydney, đi vớ vẩn lạc đường dễ như chơi. Nếu lạc đường mà hỏi dân Úc thì hỡi ơi, đúng là vịt nghe sấm vậy. Qua đường, suýt mấy lần chúng tôi bị xe tông vì chúng tôi nhìn lộn hướng (bên VN, chúng ta lái xe đi bên phải trong khi đó ở bên Úc, họ lái xe bên trái) làm các bác tài Úc sổ tràng dài chữ nho tiếng Úc, dân Nam ta chỉ biết nhe răng ra mà cười trừ: “Sorry!” Đi xe bus còn hãi hùng hơn nữa vì hệ thống đường đi của xe bus không được sắp đặt (designed) theo hệ thống Đông-Tây, Nam-Bắc như tại Bắc Mỹ nhà ta. Cứ “hứng chí” là đường xe bus (bus route) chạy vòng vèo loạn xà ngầu. Hồi chúng tôi mới qua Úc, họ còn dùng hệ thống tiền với Pounds, Shillings và Pennies. Vừa mới bước lên cái xe bus hai tầng “Double Decker”, bác “lơ xe đò” (bus conductor) đã đon đả chào hỏi:

– Fare please! (Mua vé dùm!)

Quân ta cố dặn ra câu hỏi đường xe bus đi ra sao, người thu vé xe bus trả lời rất đàng hoàng và nhanh như cái máy, quân ta càng thêm phần “ngẩn tò te” vì cái “accent” lạ tai của người Úc. Sau khi bác “lơ xe đò” mắt xanh lơ biết tôi muốn đi đâu, bác cho biết giá tiền:

– One and three (One shilling and three pennies), please!
(1s 3p = Một hào, ba xu Úc!)

Phe ta bèn đưa cho “bác lơ xe đò” tờ giấy 1 pound (1 bảng Úc, sau năm 1965 trị giá bằng 2 đô la Úc). Nhanh như chớp bác đưa “tiền thối”: một lô nào là shillings, nào là pennies. Quân ta quýnh lên chẳng biết “tiền thối” là bao nhiêu nữa. Chả là vì nó như thế này:

1 pound có 20 shillings (một Bảng Úc bằng 20 Hào Úc)
1 shilling có 12 pennies (một Hào Úc bằng 12 Xu Úc)

Như vậy tiền trả lại từ 1 pound cho giá vé 1s 3p là
= 20 shillings – 1 shilling 3 pennies
= 18 shillings 9 pennies

Quân ta cứ ngớ ra và bỏ vội một lô “tiền cắc” này vào cái túi áo veston cho đỡ quê! Thế rồi dần dà quân ta cũng quen đi. Khổ nỗi cái đồng penny nó “to con” và nặng ký lắm cơ: penny làm bằng đồng (bronze) và có đường kính cỡ 2.5cm. Quý vị thử tưởng tượng bỏ trong túi 1 pound toàn bằng shillings (1 pound = 240 shillings) thì túi áo nào mà chịu nổì.

Khi mới bắt đầu nhập học tại Đại Học New South Wales tại Sydney, M. và tôi cùng chung phòng (room mates) ở môt nhà trọ (boarding house) tại vùng Randwick của Sydney. Vì là nhà trọ cho nên nếu muốn giặt quần áo, tắm “shower” chúng tôi phải bỏ vài đồng “pennies” vào cái “gas meter” và sau khi bỏ tiền, chúng tôi phải đánh diêm để đốt gas hâm nước nóng. Những lúc tắm “shower” là những lúc tài nghệ hát hổng của tôi được bộc phát đến tuyệt đỉnh. Tôi đang mê mẩn hát:

“…Cô bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ giòng sông, cô đi … lấy chồng…”

Tự dưng thấy lạnh toát cả cái thân, thoạt đầu tưởng là mình đang “ê mô suờn” (emotional) vì vụ cô lái đò bỏ tôi mà đi lấy chồng trong lúc thân thể tôi còn đầy xà bông. Nhìn cái lò đốt ga thì không còn thấy ánh lửa, trong lúc đang run như cầy sấy (vì trời đang mùa đông nữa), tôi bèn thò tay vào bao plastic lấy thêm “pennies” bỏ vào “gas meter”. Chàng thanh niên lật đật đánh que diêm để đốt lò gas, ngờ đâu cả hộp diêm của chàng đã bị ướt sũng vì nước và xà bông từ tay chàng nhỏ xuống. Chàng chỉ còn muốn xổ nho vì cái tình đời lạnh lẽo, đen bạc đã làm chàng run lên bần bật. Chàng phải cắn răng mà dội nước lạnh cho hết bọt xà bông!

Tối hôm đó, trong cơn cảm lạnh, chàng thanh niên sống xa nhà vạn dặm mơ ngủ thấy cô lái đò bỏ thuyền, bỏ bến; riêng chàng, chàng đã bỏ mất bao diêm khô thế cho nên nó mới ra nỗi này! Lạnh ơi là lạnh, ới cô lái đò ơi!

Ở nhà trọ (boarding house) còn có nhiều cái cực nhọc của nó. Chả là vì tối chủ nhật họ không nấu cơm cho dân ở trọ, M. và tôi phải đi bộ ra phố để ăn cơm tối. Món ăn rẻ nhất và ngon nhất của tụi tôi là Hamburger. Mỗi đứa thường phải “làm” hai cái Hamburger to tổ chảng mới đỡ đói trong những đêm ngồi học. Tuy nhiên, khoảng giữa đêm là hai đứa đói nên phải mua thêm đồ ăn “snack” thì mới tiếp tục học được.

Chúng tôi là hai sinh viên trong phân khoa Kỹ Sư: M. học ngành Hóa Học, còn tôi học ngành Công Chánh. Chúng tôi may mắn học cùng Ðại Học nên đỡ cảm thấy lẻ loi và lạc lõng. Mùa đông đầu tiên tại Sydney của chúng tôi đã làm chúng tôi rất vất vả. Sau 4 giờ chiều, trời đã bắt đầu tối. Nhà trọ cách Đại Học chừng gần 2km. Hồi đó tại Sydney đang có vụ sát thủ Jack the Ripper (hay Jack the Knife) đang “thao túng thị trường”. Nghe báo chí mô tả: món sở trường của hắn là nhẩy từ trên cây xuống và dùng bao bố chùm kín nạn nhân rồi chém nạn nhân ra từng mảnh. Vì vậy mà hai chúng tôi phải hẹn nhau một nơi trong Đại Học để mà cùng về vì trên đường về nhà, đường phố có rất nhiều các cây không quá cao trong khi đó nhà nào nhà ấy tối thui như những căn nhà hoang vậy.

Một hôm về đến phòng, tụi tôi mới biết là cái radio của tôi và một số đồ dùng đã bị ăn cắp.M.và tôi quyết định dọn vào nội trú (college hay residence), tuy mắc mỏ hơn nhưng chúng tôi đỡ vất vả và đỡ mất thì giờ.

Năm thứ nhất tại Đại Học, các sinh viên trong phân khoa Kỹ Sư thật là cực nhọc. Số giờ đi học trong giảng đường (lecture), và vào phòng thí nghiệm làm việc (laboratory work) của sinh viên rất nhiều giờ so với các phân khoa khác. Chương trình Trung Học miền Nam Việt Nam hồi bấy giờ (thập niên 50, 60) đâu có huấn luyện học sinh về phần kỹ thuật trước khi vào Ðại Học trong khi đó sinh viên ban kỹ thuật tại ĐH bên Úc phải biết cách sử dụng một số máy móc phổ thông trong môn “Workshop and Technology” (sử dụng máy móc căn bản trong ngành Kỹ Sư). Hai đứa tụi tôi phải “cầy” muốn chết để theo kịp các sinh viên Úc. Ngoài ra tất cả bạn bè Việt Nam chúng tôi trong phân khoa Kỹ Sư còn phải “làm quen” với hệ thống đo lường của dân gốc Anh nữa (Imperial Units of Measurement); một hệ thống không sử dụng căn bản thập phân (decimal), rất là cầu kỳ và mất thì giờ!

Tôi còn nhớ vào tuần lễ thứ hai sau khi nhập học Năm Thứ Nhất, trong giờ “Tutorial” (làm bài tập), chúng tôi phải giải một bài toán Vật Lý có đơn vị đo lường như sau: một máy bay cao hơn 10 ngàn “feet” với vận tốc 500 “miles per hour”, thả một quả bom nặng 500 “pounds” … Tôi trố hai con mắt, miệng lầm bầm “Holy Cow!” vì chưa bao giờ hình dung được 10 ngàn feet nó cao như thế nào, 1 “mile” (một dặm Anh) dài bao nhiêu “feet” và 500 “pounds” thì nặng như thế nào… Thế là quân ta bèn phải tự làm quen với Hệ Thống Ðơn Vị Anh Cát Lợi (Imperial Units of Measurement). Ngoài ra, hồi đó còn chưa có máy tính “hand held calculator” mà chúng tôi phải bắt buộc sử dụng cái “slide rule”. Cái “thước trượt” này chỉ giúp chúng tôi trong phần “tính nhân” và “tính chia” mà thôi; phần “tính cộng” và “tính trừ”, chúng tôi phải tự làm lấy! Ôi chao là cái thời buổi đầy… nhiễu nhương!

Dọn vào ở trong nội trú, hai đứa chúng tôi vẫn còn là “room mates”. Trong tuần, mỗi bữa ăn buổi tối, sinh viên phải mặc áo thụng (gown) đen, mặc áo “veste” và thắt cà vạt. Vì “ngân sách eo hẹp” nên M. và tôi mua chung một cái “gown” của một sinh viên Úc trước khi hắn dọn ra khỏi nội trú. Chúng tôi chia phiên: đứa ăn sớm, đứa ăn trễ. Khi nào khẩn cấp thì mượn “gown” của một sinh viên Úc để cùng đi ăn.

Chúng tôi cùng thi đậu năm thứ nhất và mùa hè năm đó, hai đứa chúng tôi thuê một cái flat (apartment) cùng với ÐHP, một anh bạn Việt Nam khác. Mùa hè được chơi thả ga cho bõ những ngày phải “cầy như trâu”. Ba đực rựa sống không có quy củ cho lắm. Một lần, chúng tôi “nấu canh chua”: lấy tôm khô nấu lên với cà chua. Mùa hè Sydney trời nóng, chúng tôi quên không bỏ nồi canh vào tủ lạnh. Hai hôm sau, bạn bè đến chơi, chúng tôi bèn hâm “canh chua” mời bạn hữu ăn. Bạn bè khen lấy khen để:

– Sao mà quý vị nấu canh chua “ngon” như vậy?

Chúng tôi thật thà trình bầy cho bạn bè nghe “cách nấu” và “cách giữ đồ ăn”. Bạn bè sợ quá, bỏ chạy vào “toilet thải ra cho hết” để tránh “hậu loạn”.

Một phái nữ, sau khi đến thăm cái “flat” của chúng tôi đã “phán” như sau:

– Đúng là một cái ổ lợn!

Giờ đây ba kẻ đi ở thuê (“3 flat mates”) tuy đang ở ba phương trời khác nhau nhưng tôi đoán chắc rằng cả ba chúng tôi đều không tài nào quên được “cái thuở ban đầu lưu luyến” ấy. Mà chắc là ông Trời cũng đã sắp đặt trước: cả ba chúng tôi đều đã trở thành ba nhà giáo, mỗi đứa đã dậy học trên 30 năm trong ba đại lục khác nhau.

Trời nắng to và chiếu vào nơi tôi đang ngồi. Tôi di chuyển sang nơi khác, tọa vì dưới một cây phong (maple leaf) không cao cho lắm. Gió hơi lành lạnh, tôi không ngờ rằng mình ghi chép những giòng này đã hơn hai tiếng rưỡi đồng hồ rồi.

Xin kính mời Quý Vị vào đọc những bài viết trên mạng lưới của Úc về các cựu sinh viên Colombo Plan in Australia dưới đây :

Du học sinh Colombo – Kỳ 1: Tuyển lựa nhân tài

http://www.radioaustralia.net.au/vietnamese/2011-04-28/du-học-sinh-colombo-kỳ-1-tuyển-lựa-nhân-tài/288780

Du học sinh Colombo – Kỳ 2: Những năm tháng của thời sinh viên

http://www.radioaustralia.net.au/vietnamese/2011-05-02/du-học-sinh-colombo-kỳ-2-những-năm-tháng-của-thời-sinh-viên/288788

Du học sinh Colombo – Kỳ 3: Biến cố 1975 và hoạt động của các hội đoàn

http://www.radioaustralia.net.au/vietnamese/2011-05-04/du-học-sinh-colombo-kỳ-3-biến-cố-1975-và-hoạt-động-của-các-hội-đoàn/288796

Du học sinh Colombo – Kỳ 4: Nhìn lại thành công của chương trình Colombo

http://www.radioaustralia.net.au/vietnamese/2011-05-06/du-học-sinh-colombo-kỳ-4-nhìn-lại-thành-công-của-chương-trình-colombo/288804

Du học sinh Colombo – Kỳ 5: Niềm kiêu hãnh và nỗi buồn còn lại

http://www.radioaustralia.net.au/vietnamese/2011-05-09/du-học-sinh-colombo-kỳ-5-niềm-kiêu-hãnh-và-nỗi-buồn-còn-lại/288812

***

Câu chuyện đất Úc còn dài. Tôi đã có biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp, vui, buồn nơi đất Úc thân yêu! Xin ngưng ở đây để về nhà chờ “xếp bề trên” gọi điện thoại giao việc làm cho tôi.

Ôi Dĩ Vãng Một Thời nơi Đất Úc!

Ðàm Trung Phán
Giáo Sư Công Chánh hồi hưu
Canada
Tháng 12, 2011

NGHI PHAN’S GRADUATION-Nov.18, 2011

Đàm Trung Phán

Những bài viết .....

VIETNAMESE HISTORY AND CULTURE RESEARCH INSTITUTE

Viện Nghiên Cứu Lịch Sử và Văn Hoá Việt Nam - Giấy Phép Hoạt Động C4286523 và EIN84-3284370

Mây Bắc Mỹ

Just for leisure!

Miomie

Drawing - Reading - Writing

Cuộc Sống

Niềm Tin Và Hy Vọng

Hội Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People Memorial Association

Hội Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People Memorial Association

Việt Nam

Việt Nam

Kiếm tiền online

Kiếm tiền tại nhà hàng ngày . các cách kiếm tiền free online

Shop Mỹ Phẩm - Nước Hoa

Số 7, Lê Văn Thịnh,Bình Trưng Đông,Quận 2,HCM,Việt Nam.

Công phu Trà Đạo

Trà Đạo là một nghệ thuật đòi hỏi ít nhiều công phu

tranlucsaigon

Trăm năm trong cõi người ta...

Nhạc Nhẽo

Âm thanh.... trong ... Tịch mịch !!!

~~~~ Thơ Thẩn ~~~~

.....Chỗ Vơ Vẩn

Nguyễn Đàm Duy Trung's Blog

Trang Thơ Nguyễn Đàm Duy Trung