FABLES de La FONTAINE
Dịch Giả:
Đàm Duy Tạo (1895-1988)
Les Frelons et les Mouches à miel
A l’oeuvre on connaît l’Artisan.
Quelques rayons de miel sans maître se trouvèrent :
Des Frelons les réclamèrent ;
Des Abeilles s’opposant,
Devant certaine Guêpe on traduisit la cause.
Il était malaisé de décider la chose.
Les témoins déposaient qu’autour de ces rayons
Des animaux ailés, bourdonnants, un peu longs,
De couleur fort tannée, et tels que les Abeilles,
Avaient longtemps paru. Mais quoi ! dans les Frelons
Ces enseignes étaient pareilles.
La Guêpe, ne sachant que dire à ces raisons,
Fit enquête nouvelle, et pour plus de lumière
Entendit une fourmilière.
Le point n’en put être éclairci.
“De grâce, à quoi bon tout ceci ?
Dit une Abeille fort prudente,
Depuis tantôt six mois que la cause est pendante,
Nous voici comme aux premiers jours.
Pendant cela le miel se gâte.
Il est temps désormais que le juge se hâte :
N’a-t-il point assez léché l’Ours ?
Sans tant de contredits, et d’interlocutoires,
Et de fatras, et de grimoires,
Travaillons, les Frelons et nous :
On verra qui sait faire, avec un suc si doux,
Des cellules si bien bâties. ”
Le refus des Frelons fit voir
Que cet art passait leur savoir ;
Et la Guêpe adjugea le miel à leurs parties.
Plût à Dieu qu’on réglât ainsi tous les procès !
Que des Turcs en cela l’on suivît la méthode !
Le simple sens commun nous tiendrait lieu de Code ;
Il ne faudrait point tant de frais ;
Au lieu qu’on nous mange, on nous gruge,
On nous mine par des longueurs ;
On fait tant, à la fin, que l’huître est pour le juge,
Les écailles pour les plaideurs.
ONG BẦU VÀ ONG MẬT
Vào công việc mới hay ai thợ. (1)
Chắc vào đâu chứng cớ mồm không.
Ong bầu thấy mật mấy dòng.
Nhân khi vô chủ tham lòng nhận luôn. (2)
Ong mật vội đầu đơn khiếu nại. (3)
Việc đưa ra phân giải trước tòa.
Quan tòa bầu vẽ xét ra. (4)
Theo lời khai chứng khó mà giải phân: (5)
Chứng đều nhận quây quần đắp mật.
Là một đoàn Sí vật loài râu, (6)
Mình hơi dài sắc thẫm nâu.
Khi bay tiếng cánh vù vù như ong.
Hình sắc ấy bầu chung với mật,
Tòa xét ra chứng thật chưa rành. (7)
Truyền đem xét lại phân minh.
Dò nghe dân chúng tận tình mới hay.
Điều tra mãi qua ngày qua tháng, (8)
Vẫn không ra đích đáng của ai.
Một chàng ong mật kêu nài,
Rằng: “Tôi xin lỗi các ngài tòa quan, (9)
Việc xét hỏi quả toàn vớ vẩn,
Sáu tháng rồi mà vẫn không đâu. (10)
Án chưa xét được chút nào,
Mật e sắp hỏng xử ngay xin ngài,
Việc tôi tưởng kéo dài đã đủ,
Thôi xin đừng chứng nọ cung này: (11)
Xin cho hai bọn tôi đây,
Thi nhau lấy mật mà xây thành dòng”.
Lời từ chối của ong bầu nọ,
Tỏ ngay ra ai chủ mật kia.
Quan tòa chứng thực liền phê, (12)
Cho ong mật lãnh mật về. Việc xong.
Xin trời giúp các ông xử kiện.
Làm như ong ở truyện trên này.
Tội theo lối Thổ phạt ngay, (13)
Lẽ thường giản dị đủ thay luật lề:
Đã khỏi tốn tiền về giấy mực, (14)
Lại hết nghề quay ngược bẻ xuôi. (15)
Khỏi sinh những truyện nực cười.
Ruột sò quan nhậm, dân đôi vỏ nhìn. (16)
GIẢI NGHĨA
- Thợ đây là thợ khéo, thợ nhà nghề.
- Vô chủ là không có ai làm chủ, nghĩa là chủ đi vắng.
- Đầu đơn là làm đơn đưa lên quan khiếu nại là kêu xin đòi lại.
- Ong bầu vẽ là thứ ong to gần bằng ong bầu, nhưng phần bụng vừa vàng vừa đen
nên gọi là ong bầu vẽ, tiếng Pháp gọi là quêpe
- Khai chứng là lời khai của người làm chứng ở trước Tòa Án.
- Sí vật là loài vật có cánh.
- Rành là rõ ràng. Những lời của người làm chứng khai không rành rõ vì ba điểm khai:
có cánh, mầu nâu, bay vù vù, thì ong mật và ong bầu đều giống nhau cả.
- Điều tra là tìm kiếm tra xét mãi cho thật rành rõ.
- Tòa quan là quan án xử kiện ở tòa án.
- Không đâu là vu vơ chẳng đâu vào đâu.
- Cung đây là lời khai ở Tòa Án.
- Phê là biên lời quyết định.
- Thổ là tội theo lối Thổ: họp hội đồng dân chúng mà xử kiện cho nhanh chóng xong, kẻ có tội thường bị đấnh đòn.
- Giấy mực đây là tiền phí tổn về sự biên chép tờ bồi xử ở Tòa Án. Tiền giấy mực này thường tốn kém lắm.
- Quay ngược bẻ xuôi là cách quan và nha lại làm tiền, quay ngược bẻ xuôi cho lẽ phải ra lẽ trái, lẽ trái ra lẽ phải, doa nạt hai bên mà lấy tiền.
- Nhậm là ăn.
- Câu cuối cùng: xem phụ lục “Hai người tranh nhau con sò” của Ông Nguyễn văn Vĩnh dịch .