Đàm Trung Phán

Những bài viết …..

Category Archives: LỊCH SỬ – HISTORY

GIỚI THIỆU ỨNG CỬ NGHỊ VIÊN (COUNCILLOR CANDIDATE) KEVIN VƯƠNG, WARD 10 (SPADINA – FORT YORK), TORONTO, CANADA

 

 

Ngày bầu cử Thành Phố Toronto,  22 tháng 10, 2018 sắp tới. Hội Vận Động Dân Sự – Hỗ Trợ Bầu Cử (Vietnamese Canadian Voting & Advocacy Association) xin được gởi bài phỏng vấn sau đây về Kevin Vương.

Kevin năm nay 29 tuổi, xuất thân từ gia đình người tỵ nạn Cộng sản, sanh ra và lớn lên tại Toronto, tốt nghiệp trường Đại Học Toronto và đang dạy học tại đây (Faculty of Medicine’s Translational Research Program). Kevin cũng là sĩ quan trong lực lượng trừ bị của Hải Quân Hoàng Gia Canada (Naval Reserve Officer in the Royal Canadian Navy). Ngoài ra, Kevin cũng được kể vào số các Lãnh Đạo Trẻ của cả nước Canada do Nữ Hoàng chọn (one of Her Majesty The Queen’s Young Leaders for Canada). Kevin còn là người rất quan tâm đến Cộng Đồng Người Việt qua việc tham gia và làm việc thiện nguyện trong các sinh hoạt cộng đồng.

 

Lần này Kevin ra ứng cử Nghị Viên Hội Đồng Thành Phố Toronto với mong muốn trở thành tiếng nói đại diện cho đồng bào Việt trong guồng máy của chính quyền thành phố. Kevin và các bạn trong nhóm vận động bầu cử đã làm việc ngày đêm và hiện nay là một trong vài người có nhiều triển vọng thắng cử nhất.

 

Một số anh chị em trong cộng đồng đang cùng nhau tổ chức buổi họp mặt để vận động tranh cử cho ông Thị Trưởng John Tory và bạn trẻ Kevin Vương. Xin kính mời quý đại diện các tôn giáo, hội đoàn, truyền thông và quý đồng hương tham dự vào 6 giờ 30 chiều Chủ Nhật 14 tháng 10, 2018 tại nhà hàng Dim Sum King Seafood, 421 Dundas Street West, lầu 3, Toronto. Vé tham dự là $30 để giúp chi phí tổ chức và thức ăn tại nhà hàng.

 

Quý đồng hương ủng hộ cho ông thị trưởng John Tory hoặc Kenvin Vuong từ $26 đến $300 sẽ được thành phố hoàn trả lại 75%. Ví dụ chúng ta ký cheque tặng $100 thì thành phố sẽ trả lại $75, chúng ta thực sự chỉ tốn $25.

Tất cả người dân trong toàn tỉnh bang Ontario đều được quyền ủng hộ và nhận tiền trả lại.

 

Để biết thêm chi tiết, xin liên lạc: Lê Thuần Kiên 647-824-2830, Nguyễn Ngọc Duy 416-618-7306 (jsduynguyen@gmail.com)

Để tìm hiểu thêm về Kevin Vương, xin mời thăm trang Website: Kevinvuong.ca

 

 

PHỎNG VẤN ỨNG CỬ VIÊN KEVIN VƯƠNG

 

Hỏi (H):  Kevin Vương muốn làm được những gì nếu anh trúng cử nghị viên thành phố Toronto. Xin cho biết l‎ý do tại sao anh  ra tranh cử nghị viên khi anh đã có công việc vững chắc?

 

Đáp (Đ):  Tôi muốn phục vụ cộng đồng và thành phố Toronto qua việc làm chính trị. Cha mẹ tôi đã dậy dỗ về giá trị của sự làm việc cần cù và quan trọng nhất là lòng biết ơn. Đó là ‎lý do mà khi tôi đang đi làm, tôi lại xin nghỉ và gia nhập Hải Quân Canada (Her Majesty’s Royal Canadian Navy). Công việc của tôi là đi kiếm người và cứu người, nhất là tìm cách giải nguy cho những ai đang lâm nạn. Tôi rất muốn phục vụ cộng đồng, trả ơn Canada và thành phố Toronto vì gia đình chúng tôi đã được giúp đỡ quá nhiều rồi. Điều này rất sâu đậm, xin chia sẻ tận đáy lòng.

Tôi tin mình có thể làm chính trị nhậy bén hơn, các nghị viên có thể đáp ứng dân chúng để giúp giải quyết các vấn đề dễ dàng hơn. Khi làm chủ tịch của Hội những người ở Condo và Hội của cư dân tại Southcore, tôi đã làm việc liên tục, nghiêm túc và rõ ràng. Tôi sẽ hành xử như vậy khi tôi được bầu làm nghị viên. Tôi sẽ lắng nghe, suy ngẫm, lễ phép, và làm việc cho có kết quả tốt.

 

H:  Kevin vẫn còn làm thiện nguyện viên cho thành phố Toronto và cộng đồng Việt Nam, phải không?

 

Đ:  Tôi bắt đầu làm thiện nguyện tại chùa Pháp Vân, nhờ cơ duyên đó tôi đã biết thêm rất nhiều về cộng đồng. Khi vào đại học Western, tôi gia nhập ngay Câu Lạc Bộ Sinh Viên Việt Nam. Trong những năm học để lấy bằng cử nhân, tôi gia nhập Hội Bóng Đá (Soccer) và Thể Thao.

Khi tôi học gần xong bằng Cao Học (Masters) tại đại học Toronto trong phân khoa Luật, tôi có cơ hội gia nhập cộng đồng Việt Nam mình. Tôi muốn trả ơn xã hội bằng cách giúp đỡ các em sinh viên nhỏ tuổi hơn tôi. Tôi chỉ dẫn cho các em trong việc học và khi đi làm, giống như các anh chị sinh viên khác đã giúp đỡ tôi vậy. Tôi quyết tâm giúp đỡ và gây dựng cho thế hệ trẻ, điều này tôi đã học được từ cha mẹ tôi và cộng đồng.

 

H:  Xin Kevin cho biết về giải thưởng đã nhận được từ Nữ Hoàng Anh và các giải thưởng khác.

 

Đ:  Tôi rất hãnh diện nhận đươc giải thưởng Lãnh Đạo Giới Thanh Niên của Nữ Hoàng Anh (The Queen’s Young Leader for Canada). Là người duy nhất gốc Việt Nam, tôi cảm thấy hãnh diện được tiếp kiến Nữ Hoàng nước Anh tại Buckingham Palace. Xin tri ân các đoàn thể và các cơ quan đã công nhận vai trò phục vụ của tôi và những thành quả cho thành phố Toronto và xứ sở Canada. Sau đây là vài giải thưởng đã nhận:

 

Canada’s top 30 under 30 (30 người đứng hàng đầu dưới 30 tuổi)

Fellow of The Royal Commonwealth Society (Thành viên Hoàng gia Liên Hiệp Anh)

Fellow of The Royal Society of Arts (Thành viên của Hội Mỹ Thuật Hoàng Gia)

Fellow of The Aspen Institution (Thành viên của Trung tâm Aspen)

Canada’s top under 30 Pan-Asia leader (Thành viên lãnh đạo dưới 30 tuổi của Hiệp Hội gốc Á Châu của Canada)

The Robert G. Siskind Entrepreneurial Medal (Huy chương của Hội Thương Gia Robert Siskind)

Volunteer Toronto Legacy Award (Giải Thiện Nguyện Viên của Toronto Legacy)

The VAT Community Service Excellence Award (Giải Thiện Nguyện Viên xuất sắc của Hội Người Việt)

Vietnamese Community Leader Award (Giải Lãnh Đạo của Cộng Đồng Việt Nam)

 

H:  Nếu Kevin trúng cử Nghị viên tháng 10 năm 2018, xin cho biết anh sẽ làm gì mà anh là thấy quan trọng?

 

Đ:  Tôi đã và đang làm việc cho thành phố trong chức vụ là chủ tịch của Hội Cư Dân của Southcore (Southcore Residents Association), chúng tôi đã mở rộng kinh doanh về địa ốc mục đích là để các khu phố được an sinh tốt đẹp, nhà cửa đủ rộng, hè phố dễ đi lại và tránh cho dân chúng không bị phiền hà vì khu phố đang xây cất. Tôi cũng hãnh diện đã là tiếng nói trung thực nhất của cư dân trong Ủy Ban Điều Trần. Thay mặt chính phủ Ontario tôi đã điều tra các thang máy về phần an toàn.

Trong chức vụ chủ tịch của các Condo, tôi đã được cư dân bầu cho việc quản trị các nhà cao ốc trong 7 năm rưỡi. Từ vấn đề an toàn cho chung cư, đến những nhu cầu cho dân chúng đưa lên đến Hội Đồng Thành Phố, Chính Phủ Liên Bang và Tỉnh Bang.

 

H: Theo Kevin, vấn đề nào quan trọng nhất trong khu anh ứng cử và nhất là trong Cộng Đồng Người Việt?

 

Đ: Trong khu vực tôi ứng cử có những thứ cần phải giải quyết:

– Xe buýt, tầu điện ngầm cần chạy tốt.

– Giảm bớt ứ đọng giao thông.

– Thuế không nên tăng.

– Có thêm cây cối.

– Các cao ốc phải cho mọi tầng lớp, từng gia đình sống cho thoải mái.

– Đường đi bộ, đường đi xe đạp cho hợp lý.

– Cơ sở hạ tầng về giao thông, cộng đồng và dịch vụ xã hội.

Còn về Cộng Đồng Việt Nam, tôi thấy mình cần phải biết cách sử dụng tài năng và phân chia công việc cộng đồng. Cộng Đồng mình có rất nhiều triển vọng, nhưng tôi thấy có nhiều dịch vụ khá giống nhau. Nếu cứ giữ cách làm việc chẳng thay đổi thì chưa thực dụng hết tiềm năng. Cần phải biết cách cải thiện sự liên hệ giữa thế hệ trẻ và thế hệ đi trước. Thế hệ trước đã làm việc cần cù để tạo nền móng và bây giờ đến phiên tôi và thế hệ trẻ tiếp tục trọng trách và nâng cấp.

 

H: Xin Kevin góp ý về tháng Tư Đen và lá Cờ Vàng ba sọc đỏ.

 

Đ: Lá cờ Vàng không những chỉ tượng trưng về Di Sản và Tự Do mà nó còn mang tính cách lịch sử.

Cha mẹ tôi đã phải sống trên thuyền nhiều ngày để vượt biển, lánh nạn Cộng sản. Họ đã phải chống cự bọn cướp biển, may mắn còn sống sót để đến được trại tị nạn.

Di sản dân tộc, lá cờ Tự Do và Tháng Tư Đen đã nổi bật, nói lên ý chí can trường của người Việt chống lại sự bạo tàn dã man của thực dân Pháp và sau đó là tệ nạn Cộng Sản. Tôi đọc lịch sử Việt Nam để hiều thêm về quá khứ mà gây thêm sức mạnh, quyết chí vươn lên bất chấp các sự gian lao trong cuộc sống mới.

 

H: Theo Kevin, vai trò của đất nước Canada như thế nào trong nạn buôn bán người (human traffic), tức là hiện tượng nô lệ tân thời (modern-day slavery). Làm sao anh có thể giúp được người dân ở Việt Nam?

 

Đ: Ai cũng có quyền làm người. Kevin sẽ đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam và hải ngoại. Bây giờ, trọng tâm của tôi là Toronto vì ở đây mình có thể làm việc hữu hiệu nhất với nền móng có sẵn. Tôi rất lấy làm hãnh diện khi thấy Canada đã có thái độ cứng rắn với nạn buôn người.

 

H: Xin Kevin cho biết anh đã học hỏi những gì và đã sẵn sàng làm việc trong chức vụ Nghị Viên này chưa?

 

Đ: Tôi đã có nhiều kinh nghiệm về thu thập ý kiến chung, gặt hái kết quả dùm cho văn phòng của các nghị viên. Hiện nay, Hội Đồng Thành Phố Toronto chưa đẩy mạnh về các vấn đề thương mại, nhưng tôi sẽ là người “điền vào chỗ trống” đó, vì tôi đã từng làm việc trong ngân hàng và tôi đã từng là thương gia, dạy học ở Đại Học Toronto… Chúng ta rất cần đầu tư vào những thứ cần thiết cho thành phố như xe buýt, xe điện ngầm, giúp người nghèo… Cần biết cách làm sao để có tiền làm những công việc này.

Tôi đã có 7 năm rưỡi kinh nghiệm điều hành Hội Đồng Quản Trị các nhà cao ốc trong khu vực (ward) của tôi và trong khu thành phố Toronto. Tôi cũng là cựu sinh viên của Phân khoa Luật tại Đại Học Toronto và Đại Học Western. Như vậy tôi sẽ đem kinh nghiệm học vấn, kinh nghiệm thương trường vào chức vụ nghị viên để góp sức xây dựng Cộng Đồng tại đây.

 

H: Kevin sẽ làm gì trong những sinh hoạt Cộng Đồng Việt Nam?

 

Đ: Tôi đã cố gắng và sẽ tìm đủ mọi cách để sinh hoạt cùng Cộng Đồng Việt Nam, học hỏi kinh nghiệm từ các vị cao niên, lắng nghe tiếng nói của cộng đồng để biết Cộng Đồng mình đang cần gì, nhờ thế sẽ giúp cho cộng đồng và thành phố một cách đắc lực. Tôi đã được phát biểu trong ngày tưởng niệm 50 Tết Mậu Thân, tham dự Lễ Thượng kỳ, các sinh hoạt trong cộng đồng…

 

H: Xin cho biết Kevin sẽ trau dồi tiếng Việt ra sao?

 

Đ: Cách học hay nhất là hòa nhập để trải nghiệm. Tôi đã gia nhập vào giúp Hội Người Việt Toronto là để nhập cuộc và học thêm tiếng Việt. Nhiều khi tôi phải hỏi lại cho rõ, tôi sẽ cố gắng và chú tâm để học tiếng Việt khá hơn.

Ngoài tiếng Việt tôi biết tiếng Cantonese, tiếng Madarin. Tôi cũng muốn học thêm về tiếng Pháp.

 

H: Xin cảm ơn Kevin Vương và chúc thành công

 

(Giáo sư Đàm Trung Phán chuyển ngữ từ tiếng Anh ra tiếng Việt)

 

Xin mời xem phần phỏng vấn Kevin Vương do đài SBTN Toronto thực hiện:

 

 

 

Ứng cử viên hội đồng thành phố Toronto Kevin Vuong – Candidate for Toronto City Council

 

 

 

 

 

 

CHÚC MỪNG GIÁNG SINH 2017 & NĂM MỚI 2018 – GÌN VÀNG GIỮ NGỌC CHO TIẾNG VIỆT TRUYỀN THỐNG TẠI HẢI NGOẠI

 

 

 

Thân chúc Quý Vị và thân quyến một Giáng Sinh đầm ấm và một Năm Mới an vui, khỏe mạnh .

 

Xin mời đọc:

 

GÌN VÀNG GIỮ NGỌC

 

 

DIỄN-VĂN CHỦ-ĐỀ CỦA GIÁO-SƯ ĐÀM TRUNG PHÁP  TRONG LỄ KHAI-GIẢNG  KHÓA HUẤN-LUYỆN VÀ TU-NGHIỆP SƯ-PHẠM CÁC TRUNG-TÂM VIỆT-NGỮ NAM CALIFORNIA NGÀY 28-7-2017 TẠI LITTLE SAIGON.

 

Đau lòng phải giã biệt miền Nam khi cộng quân miền Bắc xâm chiếm cuối tháng 4 năm 1975, chúng ta mang theo được gì? Của cải, danh vọng, bà con thân thuộc, bạn bè thì không, nhưng chúng ta mang theo được văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam truyền thống ra hải ngoại với chúng ta. Sau hơn 40 năm tỵ nạn tại hải ngoại, chúng ta vẫn duy trì được văn hóa và ngôn ngữ đáng trân quý ấy. Các truyền thống văn hóa Việt thể hiện qua các lễ lạc như Tết Nguyên Đán, Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương, Giỗ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu; các tập tục như quan, hôn, tang, tế, tinh thần tôn sư trọng đạo vẫn được thiết tha duy trì trong các cộng đồng Việt hải ngoại. Và tiếng Việt truyền thống – nơi  lưu giữ cái linh hồn, cái tinh hoa, cái bản sắc, cái tình tự dân tộc thắm thiết của chúng ta – vẫn còn nguyên vẹn.

 

 

Tiếng Việt chúng ta mang theo là thứ tiếng Việt đẹp đẽ, thanh lịch, trong sáng. Đó là thứ tiếng Việt của Truyện Kiều mà học giả Phạm Quỳnh hãnh diện gọi là tiếng ta. Đó cũng là thứ tiếng Việt của Tự Lực Văn Đoàn, của Vũ Hoàng Chương, của Đinh Hùng, của các hệ thống giáo dục, văn học, báo chí, chính trị, kinh tế thời Việt Nam Cộng Hòa trước 1975.

Điều rất đáng lo ngại là ngày nay, trong khi tiếng Việt truyền thống được chúng ta gìn vàng giữ ngọc với niềm tự hào ở hải ngoại, thì ở quê nhà nó đang bị thái hóa trầm trọng để phù hợp với lối sống vô liêm xỉ, thiếu đạo đức, mất hết tự ái dân tộc, gây ra bởi một chế độ phi nhân tàn bạo lấy súng đạn mà áp bức người dân bất hạnh.

Những đồng nghiệp tại trường Đại-Học Sư-Phạm Saigon của tôi bị kẹt lại sau 30-4-1975 kể lại chuyện đau lòng đầu tiên của họ khi “bên thắng cuộc” cho một “cán bộ giáo dục” và đoàn tùy tùng đến “tiếp quản” ngôi trường khả kính đã đào tạo nhiều ngàn giáo sư trung học đầy đủ khả năng và tư cách để phục vụ nền giáo dục nhân bản và khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa. Lối xưng hô thô lỗ và cách đối xử kiêu căng hằn học của họ làm các cựu nhân viên giảng huấn (từ giảng viên cho đến giáo sư thực thụ) choáng váng. Tất cả bị gọi bằng “anh” hay “chị” và tất cả bị gọi là “giáo viên”. Vị giáo sư khoa trưởng bị đẩy ra khỏi văn phòng làm việc; câu châm ngôn Lương Sư Hưng Quốc sơn bằng chữ lớn trên bức tường gần cổng trường bị một lớp sơn mới quệt lên trên xóa hết tung tích.

Sau hơn 40 năm thái hóa, tiếng Việt bên quê nhà đã có thêm rất nhiều từ vựng mà chúng ta thấy thật “chướng tai” khi nghe nói và “gai mắt” khi thấy trong sách vở báo chí – với ý nghĩa chẳng trong sáng chút nào như được tuyên truyền. Từ vựng truyền thống đứng đắn chân phương bị thay thế bằng một thứ từ vựng ngô nghê, thô tục, cọc cằn, như  nhà hộ sinh trở thành “xưởng đẻ”; nữ quân nhân trở  thành “lính gái”; lạp xưởng trở thành “con sâu mỡ”.

Một số người thiện chí trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta (như hai ông Đào Văn Bình và Trần Văn Giang) đã thu thập được khá nhiều từ vựng quái dị này và cảnh báo đồng hương hải ngoại.   Tác giả Đào Văn Bình đã cho lên Internet cuốn Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời rất hữu ích cho giáo giới chúng ta muốn bảo vệ tiếng Việt truyền thống tinh tuyền tại hải ngoại. Đó là những từ vựng, từ ngữ đã nhiễm độc mà chúng ta phải tránh, không thể truyền bá trong cộng đồng hải ngoại, nhất là trong các lớp dạy tiếng Việt truyền thống từ mẫu giáo cho đến trung học và đại học. Đây là vài từ vựng và câu nói “đổi đời” tiêu biểu tôi tìm thấy trong TĐTVĐĐ : “động vật hoang dã” (dã thú), “lao động nữ” (nữ công nhân), “động não” (suy nghĩ), “vô tư” (thản nhiên), “anh muốn khẩn trương quản lý đời em” (anh muốn cưới em ngay), và “lối chụp hình tự sướng” (cách chụp hình selfie).

Mức nhiễm độc của tiếng Việt đổi đời ngày càng đáng sợ – nó đã tràn sang cả đại tác phẩm Truyện Kiều của dân tộc Việt. Một báo động đỏ thực sự! Truyện Kiều mà học giả Phạm Quỳnh –trong ngày giỗ cụ Nguyễn Du linh đình năm 1924 tại Hà Nội – đã tôn vinh với câu nói trước anh linh tiền nhân rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” đang bị phỉ báng và bức hại tại quê nhà. Khai pháo bởi ông kỹ sư cơ khí Đỗ Minh Xuân khi ông ta phổ biến cuốn sách có một tựa đề ngạo nghễ  “Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng” trong một cuộc hội thảo về Truyện Kiều tổ chức cuối năm 2012 tại khu di tích Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Trong “công trình” ấy, ông đã “sửa” khoảng 1.000 chỗ trong tổng số 3.524 câu thơ Truyện Kiều.

https://kimvankieu.wordpress.com/

     Tại sao ông kỹ sư cơ khí lại làm chuyện động trời như vậy? Đây là lý do tại sao ông quyết định sửa đại tác phẩm của thi hào Nguyễn Du: “Truyện Kiều không còn thịnh như trước, do rào cản điển tích, chữ Hán, từ cổ, từ địa phương – chữ nghĩa Truyện Kiều rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh.” Một công việc quái đản xưa nay chưa thấy như vậy mà lại được “anh hùng lao động” Vũ Khiêu – một học giả từng làm viện trưởng Viện xã hội học – khuyến khích và tán dương, với lời nói quả quyết  rằng sách này “là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều”.

 

Còn nhớ xưa kia, vua Tự Đức rất giỏi văn thơ mà chỉ dám nhuận sắc vài chỗ không đáng kể trong Truyện Kiều rồi cho in nó thành “bản kinh” phổ biến trong dân gian.  Chúng ta cùng xem vài thí dụ về nỗ lực sửa Truyện Kiều  kỳ dị, lệch lạc, ngớ ngẩn, đoán mò, làm tối ý nghĩa của ông Đỗ Minh Xuân [dựa vào bài viết sắc bén có tựa đề “Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều” (khuyết danh tác giả) đăng tải trên Đời Sống Pháp Luật Online ngày 28-4-2014]:

  • Lạ gì bỉ sắc tư phong = “Mỗi người thứ có thứ không” [lời văn cục súc, quê mùa].
  • Thời trân thức thức sẵn bày = “Quả ngon thức thức xách tay” [một hành động thanh nhã, cao sang, dịu dàng trở thành một hành vi thô lỗ – như thể cô Kiều hái trái cây nhà mình, bỏ vào giỏ, rồi xách tay sang đưa cho Kim Trọng ăn].
  • Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương = “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương” [chứng tỏ sự dốt nát, đoán mò, không hiểu mạch tương nghĩa là nước mắtđã dào mạch tương nghĩa là nước mắt đã dào dạt ra].

Theo cái kiểu “sửa chữa” Truyện Kiều như hiện nay ở quê nhà thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ không còn Truyện Kiều, dẫn đến chuyện không còn tiếng ta nữa, rồi bước kế tiếp là không còn nước ta nữa! Thi hào Nguyễn  Du và  học giả Phạm Quỳnh nơi cửu tuyền làm sao tránh khỏi  nỗi đoạn trường khi biết đến điều đau đớn này?

Bằng mọi giá, chúng ta phải biết rõ ranh giới giữa tiếng Việt truyền thống và tiếng Việt “đổi đời” tới mức thoái hóa bên quê nhà. Thứ tiếng Việt tồi tệ ấy không thể có chỗ đứng trong các lớp dạy tiếng Việt truyền thống tại hải ngoại ở mọi trình độ.

APPEL A TOUS LES ESPRITS DE JUSTICE ET DE LIBERTE, A TOUS LES DEMOCRATES ET ECOLOGISTES AUTHENTIQUES – S.O.S. VIETNAM

Đặng Phương Nghi

S.O.S. VIETNAM

En danger de génocide et d’annexion par la Chine !

 

Une annexion du Vietnam machiavéliquement programmée par la Chine avec la complicité du pouvoir communiste de Hanoi est en passe de se réaliser dans l’indifférence générale !

A la fin de la guerre frontalière sino-vietnamienne, menée par la Chine en représailles de l’intervention du Vietnam au Cambodge, qui dura non pas seulement quelques mois selon la version officielle, mais 10 ans (1979-1989) marqués par des atrocités inouïes de la part d’une armée de 620.000 chinois rasant tout sur leur passage (destruction de 4 villes et de villages entiers, massacre de tous leurs habitants enfants compris avec viol en réunion préalable des femmes)[i], les dirigeants de Hanoi aux abois devant la chute de l’empire soviétique, jusqu’alors leur allié, plutôt que de perdre leur pouvoir en se reconvertissant en démocrates comme en Europe de l’Est, préférèrent en 1990 aller à Canossa ou plus exactement à Chengdu faire allégeance à la Chine et lui offrir leur pays en échange de l’appui de Pékin, en vertu d’un traité secret dont la teneur succincte n’a été divulguée qu’en avril 2013 par des documents subtilisés au Service secret de la Défense nationale vietnamienne et remis au Foreign Policy Magazine par le général Hà Thanh Châu, après sa demande d’asile politique aux Etats-Unis[ii]. Selon ce traité, le pouvoir de Hanoi s’engage à la transformation progressive du Vietnam en province chinoise à l’instar du Tibet. L’évolution se fera en trois étapes de vingt ans chacune :

 

2000-2020 : le Vietnam devient province autonome,

2020-2040 : le Vietnam devient province dépendante,

2040-2060 : le Vietnam troque son nom pour Âu Lạc (du nom de deux anciennes ethnies vivant entre les deux pays) et sera soumis à l’administration du gouverneur du GuangZhou.

Les capitulards de 1990 se contentaient d’exécuter en plus nettement l’engagement de Hồ Chí Minh en retour de l’aide militaire accordée par Mao Zedong dans la 1ère guerre d’Indochine. Par la « Convention de coopération vietnamo-chinoise » signée le 12/6/1953 à GuangXi,  Hô promettait de faire désormais « fusionner le parti des travailleurs vietnamiens avec le parti communiste chinois » et de faire de « la république démocratique vietnamienne un élément de la république populaire chinoise »[iii].

 

Sous prétexte de coopération active avec le Grand frère du Nord, le processus de tibétisation  du Vietnam se déroula comme suit :

Mise au pas politique :  

–    En 1999 un traité sur la frontière terrestre stipule la cession de 900 km2[iv] (équivalents à 60% de la superficie de la province de Thái Bình) y compris la moitié de la cascade Bản Giốc et le poste Nam Quan, deux sites historiques chers au cœur des Vietnamiens.

–     En 2000 par un traité sur le golfe du Tonkin[v] le pouvoir de Hanoi cède à la Chine près de la moitié (44% ou 16000 km2) des eaux territoriales dans le golfe ainsi que la plage de Tục Lãm avec en plus le droit pour les Chinois d’exploiter économiquement les richesses naturelles du golfe dans la zone vietnamienne sous couvert de coopération. Ces deux accords sur les frontières ne sont en réalité que des textes d’application de trois traités signés par Hồ Chí Minh avec Pékin en 1957, 1961 et 1963[vi].

–     En 2013 dix résolutions sur la coopération permettent à Pékin de contrôler l’entière   politique du Vietnam. Des Chinois de Chine ou anciennement du Vietnam (ceux qui partirent en 1978) spécialement formés furent placés par le pouvoir chinois à divers postes de direction de tous les échelons dans toutes les institutions vietnamiennes, surtout dans la police et l’armée, jusqu’aux plus hautes charges de l’Etat : Actuellement, le président de la république Trần Đại Quang, le vice-premier ministre Hoàng Trung Hải considéré comme le bras droit de Pékin, le vice-président du Parlement Tô Huy Rứa et le ministre de la police Tô Lâm sont des chinois ou d’origine chinoise. De la sorte, les cadres et dignitaires à l’esprit rebelles à la sinisation sont vite repérés et mis hors d’état de nuire : Une vingtaine d’officiers haut-gradés connus pour leur hostilité à la Chine, dont le chef de l’Etat-major Đào Trọng Lịch et le commandant en chef de la 2e zone militaire Trần Tất Thanh, disparurent dans un « accident d’avion pour cause de brouillard » en mai 1998 ; plus récemment, en juillet 2016, trois mois à peine après sa nomination, le général Lê Xuân Duy, un autre commandant en chef de la même zone (très importante à cause de son voisinage avec la Chine et le Laos), héros de la guerre sino-vietnamienne de 1979, connut plutôt une « mort subite ».

–   En 2014 le traité sur un « projet de deux couloirs stratégiques » donne à la Chine le droit d’exploiter économiquement les six provinces frontalières (c’est-à-dire en fait la destruction de magnifiques forêts primaires du pays) et la région de Điện Biên, ainsi que l’établissement de deux couloirs stratégiques, Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng et Móng Cái – Hà Nội.

–     En janvier 2017, Nguyễn Phú Trọng, le secrétaire général du parti actuel est allé à Pékin signer 15 conventions promouvant une plus étroite coopération entre les deux pays, en particulier dans les domaines militaire, policier et culturel, laquelle coopération doit être comprise comme une plus grande sujétion, avec à terme l’incorporation de l’armée et la police vietnamiennes dans l’armée et la police chinoise[vii], c’est-à-dire la fin du Vietnam.

–    Quant à l’occupation des îles Paracel et Spratly par la Chine, le pouvoir de Hanoi l’entérine en quelque sorte car il réprime toute manifestation publique contre elle, et ne proteste guère ou très mollement devant les constructions et les forages que les Chinois y font[viii].

Tous ces traités furent suivis d’accords économiques permettant à Pékin d’envoyer en masse ses ressortissants sous couvert d’employés et d’ouvriers dans les endroits les plus stratégiques du Vietnam :

  • Accord pour deux entreprises conjointes (en fait chinoises car la majorité du capital vient de Chine) de bauxite installées sur le « toit » des Hauts Plateaux du Centre, d’où l’on peut dominer toute l’Indochine.
  • Accord pour l’exploitation par les Chinois des forêts primaires, ce qui revient à laisser la Chine détruire les plus belles ressources naturelles du Vietnam tout en lui permettant de contrôler des points les plus cruciaux du Nord du pays.
  • Permission aux entreprises chinoises de s’installer sur tout le littoral vietnamien, de Móng Cái à Cà Mau.
  • Possibilité pour les Chinois de fonder des villes chinoises dans tout le pays comme à Bình Dương, où la seule langue utilisée est le chinois et où les échanges se font en yuan chinois.
  • Permission aux ressortissants chinois de venir au Vietnam sans visa, de circuler et de s’installer librement au Vietnam où ils peuvent se marier avec des Vietnamiennes dont les enfants deviendront systématiquement chinois. Par contre, un visa est toujours exigé pour les Vietnamiens allant en Chine, et de nombreux quartiers chinois au Vietnam sont interdits aux Vietnamiens, même aux autorités publiques vietnamiennes.

La reconnaissance tacite de l’appartenance du Vietnam à la Chine se manifeste par l’adoption d’un drapeau chinois à 6 étoiles (une grande étoile entourée de 5 au lieu des 4 petites étoiles officielles) sur lequel le peuple vietnamien figure symboliquement comme un des peuples conquis à l’égal des peuples de la Mandchourie, de la Mongolie intérieure, du Tibet et du pays Ouighour. Ce drapeau chinois, apparu pour la première fois en 2011 en arrière-fond derrière une speakerine de la télévision officielle VTV suscita une telle interrogation indignée qu’il fut vite retiré ; on le revit pourtant en millier d’exemplaires agité par les écoliers vietnamiens pour l’accueil du vice-président chinois Xi Jinping en 2012. Face au tollé général, le gouvernement se contenta d’imputer le fait à une erreur technique des fabricants du drapeau (sic!). Ce qui n’a pas empêché ledit drapeau de figurer dans une salle de réunion de hauts-gradés vietnamiens et chinois à Lào Cai en 2015 et actuellement dans de nombreux commissariats.

D’ailleurs, le drapeau rouge avec une étoile jaune au milieu qui représente officiellement le Vietnam communiste que Hồ Chí Minh imposa au Vietnam n’est que l’emblème des jeunes pionniers communistes chinois[ix] (et non pas celui de la province de Fujian comme le prétend la rumeur). Additionné avec la forte probabilité que le fameux Hồ Chí Minh identifié avec le révolutionnaire vietnamien Nguyễn Tất Thành alias Nguyễn Ái Quốc est en fait un imposteur chinois, son sosie, dénommé Hu JiZhang (Hồ Tập Chương) alias Hu Guang (Hồ Quang), chargé par l’Internationale communiste de personnifier l’espion soviétique vietnamien après sa mort en 1932 dans les geôles de Hông Kông — d’après la révélation apportée dès 1946 par un auteur taiwanais, Wu ZhuoLiu (Ngô Trọc Lưu), dans un livre intitulé « Hồ Chí Minh » écrit en japonais,  confirmée en 1949 par un journal local du PCC, Gang Shan (Cương Sơn), réaffirmée nettement dans une biographie controversée sur « La moitié de la vie de Hồ Chí Minh » publiée par un autre universitaire taiwanais, Hu JunXiong (Hồ Tuấn Hùng) en 2008[x]–, ce trait en dit long sur la machination annexionniste des dirigeants chinois et leur détermination mûrie depuis très longtemps de conquérir le Vietnam.

Nul étonnement après cela à ce que les Chinois se comportent en maîtres arrogants, certains hauts dignitaires de Pékin ne se privant pas de traiter publiquement les dirigeants vietnamiens de « bâtards ingrats » quand Hanoi ose protester timidement contre l’un de leurs abus.

La soumission du Vietnam à la Chine se traduit par la répression violente de toute manifestation anti-chinoise (contre l’occupation des terres sur la frontière du Nord ; contre celle des îles Paracel et Spratly, traditionnellement vietnamiennes, convoitées par la plupart des pays de la région pour ses riches  gisements de pétrole représentant 25% des réserves mondiales, que la Chine a arrachées au Vietnam  par les armes en 1974 et en 1988 ; ou contre l’implantation des usines de bauxite dans une région particulièrement sensible du point de vue environnemental en 2009-2011, etc.) : des centaines de militants patriotes furent arrêtés, battus et mis en prison où beaucoup moururent par suite de mauvais traitements. Répression d’ailleurs toujours de mise, comme par exemple ces derniers mois envers les protestataires contre l’entreprise Formosa (taiwanaise par son nom et son siège en Formose, mais chinoise par son capital et donc sa gestion).

Sujétion culturelle :

L’expansion politique ne se conçoit guère sans influence culturelle, et pour Pékin, cette influence ne se comprend que par la sinisation du peuple conquis. Puisque les Vietnamiens sont destinés à fusionner dans le grand chaudron chinois, il faut effacer les traces d’antagonisme héréditaire chez eux et leur ôter en même temps la fierté de leur passé historique. C’est ainsi que Pékin imposa à Hanoi diverses mesures :

  • Faire oublier la vaillante résistance à l’armée chinoise dans la guerre de 1979-1989 : A l’indignation impuissante des anciens combattants, à la frontière nordique, Hanoi dut faire gratter sur la tombe des militaires vietnamiens morts pour la patrie tout ce qui a trait à cette guerre et à leur héroïsme. Par contre, des cimetières et monuments grandioses y furent édifiés en l’honneur des soldats chinois tombés au Vietnam. L’abondante publication hostile à la Chine durant la guerre disparut de la circulation et désormais les rares mentions de cette guerre dans les manuels d’histoire ne comportent guère plus de 11 lignes, si bien que les jeunes Vietnamiens ignorent jusqu’à son existence[xi]. Sur les annexions des terres frontalières comme des îles Paracel et Spratly et sur les exactions fréquentes de l’armée chinoise tels le mitraillage des bateaux de pêcheurs ou l’abattage des avions vietnamiens au large des eaux territoriales vietnamiennes dont la Chine s’est approprié la moitié, un silence radio est strictement observé.
  • Eviter la glorification des grands héros de l’histoire honorés pour leur lutte victorieuse contre l’envahisseur chinois. Il fut même question sous des prétextes oiseux de retirer leurs statues des lieux publics, mais le sujet trop sensible fut remis de côté et le pouvoir se contente de les déboulonner dans les habitations des particuliers (cas récent pour la statue du général Trần Hưng Đạo, grand vainqueur des Mongols, édifiée chez un habitant de la province de Lâm Đồng[xii]).
  • Aucune assimilation ne peut s’exercer sans adoption du langage. A l’inverse de l’anglais, langue très flexible et aisée à apprendre, malheureusement pour les ambitions hégémoniques de la Chine, la langue chinoise avec son écriture idéographique se prête mal à la propagation internationale et ne séduit guère les Vietnamiens. Si tu ne veux pas l’apprendre de ton plein gré, tu l’apprendras de force : des décrets furent donc arrêtés en fin 2016 pour imposer le chinois comme une première langue étrangère obligatoire au secondaire et pour introduire le chinois comme deuxième langue dès le primaire. Pour le moment, des émissions entièrement en chinois sont diffusées par la radio et la télévision vietnamiennes et même dans les programmes vietnamiens sont intercalées au milieu de la musique nationale des chansons chinoises.

Destruction de l’économie :

Hanoi comme Pékin devaient tenir secret le contenu du traité de 1990 par crainte de la révolte unanime des Vietnamiens, animés par suite des leçons de l’histoire d’une hostilité viscérale envers le grand voisin prédateur. Pour éviter d’avoir à faire face à 90 millions de résistants au moment de la proclamation officielle de l’annexion, et ne convoitant le Vietnam que pour ses richesses minières (en particulier bauxite et pétrole) et sa situation favorablement stratégique en Asie du Sud-Est, Pékin machina une véritable entreprise de génocide contre la population vietnamienne en vue d’un repeuplement par des Chinois, qui débuta aussitôt le traité signé. Devant la destruction méthodique de l’économie et l’empoisonnement parallèle de toutes leurs sources de vie, les jeunes Vietnamiens sont et seront poussés à émigrer, ceux qui restent seront réduits au fil des années à l’état de malades impotents et les enfants à venir destinés à naître chétifs ou difformes.

Destruction de l’agriculture :

Le Vietnam tire ses ressources principales d’une agriculture florissante qui occupe encore plus de la moitié de sa population, du produit de ses pêches, du tourisme, et aussi du pétrole (depuis 2000). La culture du riz nourricier pour lequel le Vietnam est encore jusqu’à peu le 2e producteur au monde et le 3e exportateur, fut donc la première cible de Pékin :

Le vaste delta du Mékong, grenier à riz du Vietnam, dépend des crues alluvionnaires annuelles qui lui assurent sa fertilité. Depuis la mise en activité d’une cascade de 6 barrages chinois dans le Yunnan en amont du Mékong (4 autres sont prévus, sans compter le projet de deux canaux qui détourneront dans les alentours l’eau du fleuve), en particulier les gigantesques barrages hydroélectriques de Xiaowan (capacité : 15 milliards de m3, 2010) et Nuozhadu (capacité : 23 milliards de m3, 2012), les autres pays qui vivent du Mékong assistent impuissants à la détérioration de leur économie fluviale. Ne pouvant s’en prendre au puissant chinois qui manipule les débits du fleuve à sa guise sans même prévenir les riverains et s’assoit sur les mises en garde la Commission régionale du Mékong dont il refuse de faire partie, ces pays préfèrent participer à la curée en construisant leurs propres barrages avec la bénédiction et l’apport financier de Pékin (11 prévus au Laos qui rêve d’être un grand pourvoyeur d’électricité pour la région, dont l’énorme Xayaburi sur le cours principal du fleuve, déjà en chantier ; 2 en projet au Cambodge et 2 autres en Thailande)[xiii].

Le Vietnam, en aval dans le delta ne peut que constater les dégâts : en butte à des sécheresses prolongées et des crues dévastatrices, les sols s’appauvrissent faute de sédiments et à cause entre autres de la salinisation due à l’augmentation de la température et la montée des eaux de mer ;  le niveau de l’eau douce baisse dangereusement jusqu’à parfois la pénurie  entraînant la chute des réserves de poissons ; avec le changement de température se multiplient les insectes et les champignons qui provoquent des maladies (développement de la dengue) et détruisent les récoltes[xiv]. A l’action des barrages, s’ajoute la destruction des mangroves surtout dans l’extrême sud pour y élever des crevettes à l’exportation, à l’instigation des entreprises de congélation de fruits de mer pour la plupart tenues par des Chinois. Sans les arbres pour fixer la terre, les côtes s’érodent et chaque année 500 ha disparaissent. Cà Mau bientôt n’aura plus la forme de pointe.

En conséquence la superficie des rizières se réduit, et leur rendement baisse de 15%  depuis une dizaine d’années ; la situation se dégrade si rapidement que l’on parle même de risque de famine dans les années à venir. Car paradoxalement, dans le Vietnam grand exportateur de riz, les habitants sont obligés souvent de manger du riz importé ; cela tient au fait  qu’une bonne partie (60%) des récoltes est préemptée par l’Etat qui  l’achète à très bas prix au producteur (3000 đ/kg au lieu de 4500 đ sur le marché), pour l’exportation. Où ? en priorité (40%) vers la Chine (au prix de 6000 đ), laquelle en échange du bon riz vietnamien revend à la population vietnamienne son propre riz de mauvaise qualité, parfois mélangé de grains en plastique appelé « faux riz » à un prix double ou triple (jusqu’à 30000 đ). Exploités et découragés par les mauvaises conditions de travail, chassés d’une terre devenue aride, un nombre grandissant de paysans abandonnent le métier, émigrent en ville ou dans les pays avoisinants, abandonnant la terre aux Chinois qui s’empressent de l’acquérir.

Décidés à s’emparer du maximum de terre pour leur colonisation de peuplement, les Chinois trouvent mille astuces plus diaboliques les unes que les autres pour ruiner les paysans récalcitrants et à les pousser à abandonner leur foyer. Leur subtile cruauté trouve en la petite paysannerie pauvre d’où cupide, ignorante et crédule une proie facile :

  • Des commerçants chinois voyageant par tout le pays repèrent les paysans en difficulté et proposent de leur acheter les quatre sabots de leur buffle au prix de l’animal, ce que les pauvres hères acceptent en pensant gagner double puisque l’animal tué pour leurs sabots pourra ensuite être vendu comme viande. Le buffle étant pour le paysan son instrument de travail, celui-ci disparu, il ne restera d’autre choix au paysan que l’acquiescement à n’importe quelle suggestion du chinois : combler sa rizière pour en faire une terre pour culture vivrière ou plantation d’arbustes en utilisant des fertilisants et pesticides chinois toxiques (qui ne respectent aucune des normes internationales) que lui vend à crédit le commerçant, lequel lui promet en retour de lui acheter à bon prix le produit de sa récolte ; promesse souvent tenue au moins la première année ; ensuite, sous des prétextes quelconques (ex. le produit en question n’est plus demandé) le commerçant ou un autre de ses congénères refuse l’achat du produit, lequel devra être bradé à vil prix par le paysan, trop heureux de pouvoir écouler rapidement des matières périssables. Le paysan finalement surendetté se voit obligé de céder sa terre au chinois ou à un de ses complices pour émigrer ailleurs.
  • Autre variante : là où la région prospère grâce à une certaine culture, le commerçant offre d’acheter toutes les feuilles du tubercule (par exemple le manioc) ou de la plante, ou aussi toutes les racines de la plante, à un prix bien supérieur à la récolte elle-même ; résultat, le tubercule ne peut se développer, la plante meurt et le paysan se trouve démuni de semence ou de plantule pour la prochaine saison ; de nouveau offre de vente d’engrais et de pesticides pour la plantation d’un fruit,  d’une fleur, etc. de très bon rapport, etc..  L’astuce de l’achat des racines a été utilisée pour la destruction des poivriers, une des richesses du Centre-Vietnam.
  • Toute une culture centenaire aux frontières du Cambodge, celle du palmier à sucre, est en train d’y être éradiquée « grâce » aux Chinois qui viennent proposer aux paysans d’acheter à prix fort des troncs de ce palmier ; coupés en deux le palmier ne peut que mourir et il n’est pas question d’en replanter car l’arbre ne produit qu’au bout d’une vingtaine d’années[xv].

La volonté destructrice chinoise n’a pas de borne : Les Chinois font courir le bruit qu’ils sont prêts à acheter très cher des tonnes et tonnes de blattes ou de sangsues à des fins médicales, aussitôt les pauvres paysans, petits et grands, négligent leur travail routinier pour s’adonner à la chasse des dites bêtes, voire à leur élevage ; comme d’habitude, l’achat est effectif en quelques endroits pendant un certain temps, puis les marchands chinois n’en veulent plus et les stockeurs de blattes ou sangsues se retrouvent avec d’énormes quantités de bêtes nuisibles qu’à défaut de pouvoir tout brûler ils rejettent dans la nature où elles endommagent l’environnement, ravagent le bétail et affectent les humains. Aux paysans un peu plus futés, des Chinois « experts » viennent conseiller une augmentation de revenu avec l’élevage d’une variété de bulot (pomacea), de homard d’eau douce (procambarus) ou de tortue rouge, dont la chair est en effet prisée. Or, ce sont trois espèces importées d’Amérique, terriblement invasives, qui ne tardent pas à envahir rizières, fleuves et lacs, canaux…, tuant la faune et la flore locale, en particulier les jeunes plants de riz à un degré tel que la FAO en est alarmée[xvi].

Mieux ou pire encore, des inconnus ont été surpris en train de jeter des bébés crocodiles dans le Mékong. Ce n’est peut-être qu’une rumeur, mais en février dernier, au vu et au su d’un millier de personnes, un bonze, « élu » même député, — connu pour avoir publiquement pris à partie Lý Thường Kiệt, le grand général vainqueur des Song dans une guerre pour la première fois offensive et non pas défensive en 1075, pour son « insolence » envers l’Empire, — certainement un agent chinois, a fait jeter dans le Fleuve rouge, sous couvert d’un rite de délivrance des âmes, dix tonnes de piranhas, de quoi infester tout le fleuve et y interdire désormais toute activité. Pouvez-vous imaginer un tel acte ? Devant l’indignation générale les autorités minimisent le fait en déclarant que les piranhas incriminés appartiennent à une variété inoffensive [xvii]!

Les plantations de café pour lequel le Vietnam est le 2e producteur du monde (et le 1er pour la variété robusta), ne subissent pas de destruction en règle de la part des Chinois, d’abord parce que c’est plutôt un produit d’exportation (seuls 5% servent à la consommation nationale) non indispensable à la vie de la population, ensuite parce qu’ils veulent s’en rendre maîtres : toujours à l’affût de la moindre occasion de rachat à rabais, ils comptent déjà sur la forte fluctuation du prix du café qui pousse à la ruine les planteurs incapables d’encaisser une chute brutale des cours (comme par exemple en 2012) pour ce faire.

Destruction des forêts, poumon du Vietnam :

Trente ans de guerre avec des bombardements massifs n’ont détruit que 16% (et non 60% comme le clame la propagande officielle) des forêts vietnamiennes d’après un calcul basé sur les chiffres souvent contradictoires donnés dans divers articles dont il ressort qu’en 1943 le Vietnam était boisé à 43%, (c’est-à-dire sur 140.000 km2, puisque la superficie totale du Vietnam est de 330.000 km2) et que de 1943 à 1973 les forêts détruites couvraient 22000 km2 ; mais 17 ans après la guerre (en 1990) la couverture en forêt n’est officiellement que de 92.000 km2, ce qui veut dire qu’en temps de paix 26.000 km2 de forêts ont été détruits, soit plus et plus vite qu’en temps de guerre. Et la déforestation continue, malgré un grand effort de reforestation depuis. En 2013, les forêts recouvrent 39% du territoire, mais 25% de ces forêts ne sont constitués que par un reboisement en essences peu ombrophiles et pauvres en diversité comme le pin et l’eucalyptus. De plus avec la déforestation vient l’érosion et la dégradation des sols nus dont 40% devient impropre à la culture[xviii].

Parmi les causes de la déforestation, la principale est certes la croissance démographique avec ses conséquences en besoin d’espace, de construction, de bois de chauffage (cuisine) et en développement agricole et industriel, mais le facteur le plus funeste est la destruction systématique des forêts par les exploitants chinois auxquels le pouvoir vietnamien a attribué la concession de milliers de km2 à la frontière du Nord et sur les hauts-plateaux du Centre[xix]. Ajoutez à cela le pillage organisé par les trafiquants de bois dont les chefs sont d’ordinaire des Chinois de mèche avec les autorités locales qui tirent de ce commerce illégal[xx] représentant la moitié du commerce du bois un profit de 2,5 milliards USD par an. La déforestation du Vietnam est d’autant plus déplorable que le ravage concerne des belles forêts pluviales, surtout des forêts primaires aussi rares que précieuses par leur biodiversité (elles abritent ou abritaient plus de mille espèces différentes, dont 8,2% endémiques et 3,4% protégées par l’ONU): de 10% (des forêts) encore en 1996, il n’en reste que 0,6% soit 80000  ha en 2012. En seulement une vingtaine d’années le régime communiste de Hanoi a ainsi réussi à dilapider le fabuleux héritage ancestral des forêts d’or (rừng vàng[xxi]).

Pollution de l’environnement :

Devant la pollution empoisonnant son propre pays, Pékin eut l’idée d’utiliser l’intoxication chimique  pour se débarrasser des Vietnamiens. Par des pressions politiques autant que financières, elle fit accepter par Hanoi l’implantation par tout le Vietnam de ses industries les plus polluantes. Déjà en 1990, après à la fin de la guerre sino-vietnamienne, de nombreux Chinois venus ou revenus au Vietnam se sont remis à faire du commerce et à ouvrir de petites entreprises en prenant des Vietnamiens d’abord comme prête-nom puis comme partenaire d’entreprise-conjointe. Même lorsqu’à partir de 2005 sont acceptées des entreprises 100% étrangères, sachant la méfiance des Vietnamiens envers la Chine, beaucoup d’entreprises 100% chinoises préfèrent se prétendre joint-ventures en s’alliant avec des cadres corrompus, et on peut dire qu’aujourd’hui la grande majorité des entreprises présentes au Vietnam ont des Chinois pour propriétaires[xxii].

Profitant de l’ignorance de la population et de la carence des lois vietnamiennes, les petites unités chinoises, comme celles des Vietnamiens eux-mêmes, il faut le reconnaître, rejetaient à gogo leurs déchets dans les fleuves au grand dam des riverains. Pour Pékin ce n’était pas assez, et le pouvoir chinois se détermina à passer à la vitesse supérieure. Alors que la Chine elle-même avait fermé toutes ses usines de bauxite pour cause de dégâts environnementaux, après de multiples pressions à partir de 2001, Pékin finit en 2007 par faire signer par le premier ministre Nguyễn Tấn Dũng l’accord pour un projet de 6 usines de bauxite sur une surface de 1800 km2 concédées, à exploiter en commun par les deux pays sur les Hauts plateaux du Centre, où se trouvent les troisièmes plus riches gisements de bauxite du monde[xxiii]. L’emplacement des deux premiers sites choisis, à DakNong et Lâm Đồng, une fois connu, suscita pour la première fois au Vietnam communiste une levée de protestation de scientifiques, d’intellectuels et de personnalités diverses (pétition de 2600 signatures) qui évoquaient des dangers considérables pour l’environnement et partant pour les hommes et la culture des théiers et caféiers dans les alentours, sans compter, comme le remarquent les militaires, le danger d’une installation de milliers de Chinois censés être ouvriers sur le « Toit de l’Indochine »[xxiv]. Le gouvernement passa outre, arrêta les meneurs de la révolte, les usines furent donc mises en construction en 2009 ; et l’on interdit au peuple de s’aventurer dans leur zone comme c’est devenu la règle pour toute grande entreprise chinoise.  Qu’en résulte-t-il ?  Pour implanter les usines on a sacrifié des milliers d’hectares de forêts primaires et de terres de plantation, provoquant la paupérisation des habitants (des montagnards sans défense), la pénurie d’eau douce dont une bonne partie est captée pour la fabrication de l’alumine, et le risque de déversement des boues rouges hors des deux fosses où elles sont stockées à l’air libre en cas de pluie diluvienne[xxv]. Et les travailleurs chinois y vivent toujours dans des quartiers réservés sans que l’on sache exactement leur nombre ni leur réelle fonction. Quant aux deux usines censées rapporter plein de devises au Vietnam, elles n’ont pas cessé d’être déficitaires[xxvi] au point qu’en 2016 le Ministère de l’industrie et du commerce a dû réclamer de l’aide gouvernementale pour remplacer les équipements chinois vieillots et inefficaces par des machines à la technologie plus avancée des autres pays.

Le summum de la duplicité et de l’inhumanité chinoise (jusqu’à présent au moins) comme de la complicité gouvernementale vietnamienne est atteint avec l’entreprise Formosa. En 2008, Pékin fit pression sur Hanoi pour que fût accordée à la Formosa Plastics group, une compagnie taiwanaise habituée des procès environnementaux, la permission d’implanter une aciérie dans la province de Hà Tĩnh au Centre Vietnam. Pour ce projet, le groupe constitua une filiale, la Hung Nghiep Formosa Ha Tinh Company, appelée simplement Formosa au Vietnam, dont les parts furent bientôt rachetées par des compagnies chinoises, ce qui fait en réalité d’elle une compagnie chinoise et non plus taiwanaise comme beaucoup encore le croient. En 2010, toujours par la concussion et l’intimidation, Formosa se fit obtenir la concession pour 70 ans de 3300 ha à Vũng Áng dans le district de Kỳ Anh, juste devant un port d’eau profonde de grande importance militaire puisque des bateaux de 50.000 DWT et des sous-marins peuvent s’y abriter. Outre cet énorme privilège (selon la loi vietnamienne en vigueur qui ne reconnaît pas la propriété foncière mais seulement l’utilisation de terrain, aucun particulier ou groupe au Vietnam ne peut se voir délivrer un permis d’utilisation dépassant 45 ans), Formosa bénéficia aussi d’une remise de taxe foncière et de taxe sur l’importation des marchandises, ce qui ne l’empêcha pas de pratiquer la fraude dans leur paiement (découverte en 2016) pour près de 300 millions de dollars, et du droit de développer les infrastructures à sa guise !

Malgré les protestations des habitants expropriés, l’usine fut mise en construction en 2012 et l’on vit surgir en 2015 sur son emplacement un immense complexe dont on peut avoir un aperçu en tapant sur Google map.

Le 6 avril 2016, alors que l’usine était à peine terminée, les habitants de Vũng Áng découvrirent sur leurs plages un nombre effrayant de poissons morts ; les jours suivants, jusqu’au 18 avril, le phénomène s’étendit sur les côtes du Centre, offrant le spectacle de kilomètres de poissons morts  estimés au nombre de plusieurs millions. Cette mort de la mer qui s’avérera être la plus grande catastrophe écologique jamais vue jusqu’ici, ne suscita d’abord aucune réaction des autorités. En cherchant la cause du désastre, des pêcheurs-plongeurs détectèrent des conduites provenant de Formosa qui crachaient des jets continuels d’un liquide étrangement rouge. Commencèrent alors des manifestations dans tout le pays contre la compagnie chinoise. Les autorités vietnamiennes ne se réveillèrent que 6 semaines après l’hécatombe pour parler de catastrophe et amener Formosa à accepter sa responsabilité. Mais au lieu de fermer aussitôt l’usine et d’ordonner une enquête sur les effets de la pollution, le gouvernement se contenta d’un dédommagement de 500 millions de dollars dont la somme dérisoire par rapport aux dommages causés n’est toujours pas distribuée aux victimes,  au point qu’on se demande si elle a été effectivement versée et dans ce cas empochée par qui. Or, selon les quelques scientifiques venus constater les dégâts, il faudra des dizaines d’années voire des siècles pour que la mer guérisse de ces millions de m3 de liquide remplis de métaux lourds et autres produits toxiques3f (plomb, mercure, cadmium, manganèse, phénol, cyanide, etc., selon un laboratoire indépendant des autorités) que Formosa rejetait et rejette dans ses eaux[xxvii]. Et ce n’est plus aujourd’hui les deux provinces avoisinantes de Formosa mais toutes les quatre provinces centrales (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) qui sont touchées et la nappe des eaux rouges continue de s’étendre et commence à gagner les côtes méridionales. Pour survivre les pêcheurs essaient d’aller chercher du poisson au grand large où ils risquent d’être abattus par les pêcheurs armés chinois et la marine chinoise qui se sont appropriés la Mer orientale.

Comme si Formosa ne suffit pas, dans la même région, profitant de la saison des pluies, une vingtaine d’usines hydroélectriques détenues par les Chinois déversent sans crier gare l’eau de leur bassin sur la campagne environnante, détruisant les cultures et tuant plusieurs centaines de personnes. Ce genre d’inondations causées sciemment et souvent sans préavis par les usines hydroélectriques ont fini par susciter dans la population un sentiment de détestation envers les 7000 barrages qui produisent 40% de l’électricité nationale[xxviii], que Hanoi parsème dans tout le pays à l’imitation des Chinois en Chine.

Plus grave, en pleine tempête Formosa, pour se moquer du monde, les Chinois, sous leur faux nez, la compagnie vietnamienne Hoa Sen, se firent accorder la licence pour l’implantation d’une autre aciérie d’égale ampleur à Cà Ná, province de Ninh Thuận, dans le Sud du pays[xxix]. Si cette usine voit le jour et se met à rejeter ses déchets dans la mer comme celle du Centre, nul doute que toutes les provinces littorales vietnamiennes deviendront inhabitables pour ses autochtones et que l’économie maritime  s’effondrera complètement.

D’ailleurs, même sans Cà Ná, le reste du littoral vietnamien est déjà en voie de destruction avec, outre en maints endroits le raclage systématique du sable des plages par des entreprises légales et illégales pour la vente aux Chinois, le rejet direct dans la mer des déchets solides des multiples centrales thermiques à base de charbon en majorité chinoises (dont l’une fait partie du complexe Formosa), la plus grande et la plus polluante, celle de Vĩnh Tân 1 dans la province de Bình Thuận  étant de surcroît sise à côté d’une zone maritime protégée.

Pour parfaire la destruction du Sud, en 2008 les Chinois, via la compagnie Lee & Man, se firent accorder la construction d’une gigantesque papeterie devant produire 420 000 tonnes de papier par an sur le Sông Hậu, le grand fleuve nourricier du delta, au fi des protestations unanimes[xxx]. Cette usine qui entre en principe en fonction cette année tuera certainement le fleuve avec ses énormes quantités de rejets de soude et d’autres produits toxiques et ruineront riziculture comme aquaculture dans l’Ouest

A la différence d’autres entreprises étrangères, peu nocives, les entreprises chinoises installées sur tout le territoire vietnamien, sont toutes très polluantes par la nature de leurs produits et rejettent allègrement leurs déchets dans l’atmosphère, dans le sol comme dans les eaux. Lacs et rivières vietnamiens sont déjà noirâtres ou rougeâtres selon les substances qui s’y déposent. Le sol imprégné d’engrais et de pesticides contamine les récoltes. On soupçonne même la Chine d’exporter avec ou non l’agrément de Hanoi ses propres déchets toxiques au Vietnam où ils sont enfouis dans divers endroits du pays, sur la foi des témoignages de quelques complices repentis. D’ailleurs d’où Formosa tire-t-elle tant de déchets quand sur sa propre déclaration ses fourneaux ne sont pas tout à fait prêts avant 2017 ?  Quant à l’air, il ne tardera pas à être complètement irrespirable avec la mise en activité de 20 centrales thermiques à base de charbon disséminées dans le pays (un projet gouvernemental veut même élever ce chiffre de 20 à 80 centrales d’ici 2030) dont 15 appartiennent aux Chinois (directement ou indirectement par leur prêt du capital) lesquelles fonctionnent avec une technologie obsolète et des équipements hérités des centrales chinoises que Pékin veut fermer en Chine[xxxi]. Ce choix d’énergie fossile très polluante, provoquant brouillard et pluies acides, encouragé par Pékin, a été fait au détriment de l’énergie renouvelable, alors que le Vietnam, avec plus de 3000 km de côte venteuse accueillerait avantageusement des éoliennes.

 

Conséquences de la pollution :

La population vietnamienne a extrêmement peur maintenant pour sa santé. Outre l’air qu’elle respire, l’eau dont elle sert pour ses ablutions et sa lessive, tous ses aliments sont désormais susceptibles de l’empoisonner. Fruits et légumes sont non seulement bourrés de pesticides chinois fortement nuisibles mais aussi de produits chimiques chinois dangereux qui les grossissent ou prolongent leur fraîcheur apparente. D’ailleurs, depuis les traités sino-vietnamiens, les produits alimentaires importés de Chine envahissent les marchés vietnamiens et ils sont encore pire : il n’y a pas de semaine sans que les journaux ne rapportent des cas d’intoxication causée par l’un de ces produits, ou ne révèlent des cas de faux riz, de faux œufs, de fausses nouilles, de fausses viandes de faux café, etc. fabriqués tous avec des produits chimiques[xxxii]. Comment alors se protéger puisqu’il faut bien manger pour vivre ? Comment savoir si le fruit ou le légume que l’on mange n’est pas contaminé, si la viande que l’on savoure n’est pas trafiquée, si le poisson que l’on achète n’est pas bourré de métaux toxiques, si le nước mắm que l’on consomme n’est pas fabriqué à partir de ces poissons intoxiqués et si le sel que l’on utilise ne provient pas d’un littoral  pollué ? Le Vietnam est désormais un pays à forte quantité de cancéreux avec un nombre de morts par cancer estimé en 2015 par l’OMS sur la base des déclarations des hôpitaux vietnamiens à 350 par jour, et un nombre de 115 000 cas nouveaux par an, et on s’attend à ce que ces chiffres augmentent fortement après la catastrophe Formosa[xxxiii].

Cependant le gouvernement complice des pollueurs refuse de prendre des mesures sanitaires, repousse toute demande d’analyse de l’eau, interdisant même après Formosa aux médecins  d’examiner le sang des habitants des provinces du Centre par peur d’une exploitation par des « forces ennemies » (terme désignant les groupes d’opposants au régime). Les « génocideurs » de Pékin peuvent se frotter les mains. Le sud-ouest et le centre du Vietnam se vident peu à peu de leur population, poussée par la misère à émigrer à l’étranger sur l’incitation du gouvernement. Et la plupart de ces émigrants peu éduqués n’ont d’autre ressource que de rejoindre le lumpenprolétariat du pays d’accueil qui les reçoit mal et les méprise. Par ironie, à l’instar de Donald Trump, le premier ministre cambodgien a énoncé dernièrement le projet de construction d’un mur sur la frontière vietnamienne pour empêcher les Vietnamiens sans papier d’entrer au Cambodge ! Pendant ce temps viennent s’installer partout au Vietnam des milliers sinon déjà des millions de Chinois auxquels les autorités réservent les meilleurs emplacements, quitte à exproprier contre une indemnisation insignifiante les Vietnamiens qui y habitent depuis des générations, créant ainsi des collectifs de « dân oan » (victimes d’injustice) que l’on peut voir rassemblés autour de la capitale ou des préfectures pour réclamer une réparation qui ne sera jamais faite.

Menaces militaires :

A l’encontre des pays libres qui n’accueillent les entreprises étrangères que dans la perspective de procurer du travail à leurs citoyens, le gouvernement vietnamien souffre sans piper que les compagnies chinoises importent tout leur personnel au nombre de dizaines de milliers, voire bien plus, et se refusent à tout contrôle de la part de son administration. Entre également dans ce comportement de servilité/arrogance un souci de dissimulation d’une réalité bien plus inquiétante. Les terrains immenses concédés à la Chine pour leurs usines qui n’en nécessitent pas tant, situés de surcroit dans les positions les plus stratégiques du pays, protégés de barbelés et interdits aux Vietnamiens, fussent-ils des représentants de l’autorité publique, ne peuvent abriter que des complexes militaires dont le personnel se compose des soi-disant employés d’usines. Armements de toutes tailles passés par la frontière ouverte peuvent y être aisément camouflés, surtout si des tunnels y sont creusés. D’ailleurs, si l’on en croit la rumeur, les Chinois sont en train (ou ont fini) de construire en secret deux tunnels assez grands pour l’usage de tanks et de camions, pour relier la région des hauts-plateaux et le delta du Mékong[xxxiv].

Actuellement, en cas d’invasion armée, la Chine peut mouvoir à tout moment des régiments par le Nord-Vietnam dont la région frontalière et la baie du Tonkin sont déjà sous son contrôle, au Centre elle dispose des bases sur les Hauts plateaux aussi bien que sur la côte avec le port de Vũng Áng où peuvent entrer ses sous-marins et gros navires. Plus éloigné, le Sud sera atteint par des troupes descendues du Centre, et aussi par des avions partant des pistes d’atterrissage construits récemment sur les îles Paracel et Spratly volées au Vietnam. Si les intrigues en cours réussissent, la Chine se rendra bientôt maîtresse de plusieurs aéroports régionaux déficitaires qu’elle pourra transformer en aérodromes militaires.

Pour parfaire l’encerclement du Vietnam et empêcher tout approvisionnement en sa faveur par voie terrestre aussi bien que maritime, la Chine a noué une solide alliance avec le Laos et le Cambodge, lequel lui a même loué pour 90 ans une base navale dans le port de Sihanoukville d’où elle peut surveiller la mer du Sud. En cas de nécessité, par exemple d’intervention américaine, elle a déployé une rangée de missiles sol-air aux îles Paracel pointées où, sinon sur le Vietnam distant d’à peine une trentaine de km.

Tous ces préparatifs militaires ne font que concrétiser l’ambition belliqueuse de la Chine, ambition qu’elle n’a jamais dissimulée : sur le site web sina.com de l’armée chinoise les auteurs des articles publiés le 5/9/2008 puis le 20/12/2014 expliquent comment la Chine peut conquérir rapidement le Vietnam ! Mais, en bons disciples de Sun Zi et en amateurs du jeu de go, surtout après l’invasion ratée de 1979, les Chinois préfèrent n’utiliser la force qu’en dernier recours, après avoir étouffé l’adversaire. C’est ainsi que depuis des dizaines d’années la Chine a appliqué patiemment envers son petit voisin « la stratégie du vers à soie » qui vient à bout par grignotage d’un gros tas de feuilles de mûrier.

 

La population vietnamienne, prise entre le marteau chinois et l’enclume gouvernementale, préfère pour beaucoup vivre dans le déni ou le fatalisme. Mais les négateurs de la menace chinoise ne peuvent contester l’omniprésence des Chinois dans le pays, et depuis les fuites sur le traité de 1990, surtout depuis le développement de la technique « livestream » sur Facebook qui permet l’échange direct des informations, ils prennent conscience du danger imminent que le pouvoir communiste veut leur cacher. Pour leur part, les traîtres de l’appareil d’Etat, mis au parfum depuis longtemps, ne cherchent qu’à se constituer une fortune conséquente par racket et concussion, puis à la transférer à l’étranger par des moyens plus ou moins licites. Cependant que le Vietnam risque la faillite pour une dette actuelle de 117 milliards USD équivalant à 64% du PNB[xxxv] qu’il est incapable de payer (à l’échéance de juillet 2017 le service de la dette du Vietnam s’élève à 24% du budget national)[xxxvi], vu que les caisses du pays sont vides (en beaucoup d’endroits les fonctionnaires et les employés d’entreprise étatiques ne sont pas payés depuis des mois[xxxvii]), on estime à plus de 600 milliards USD l’argent volé au peuple des apparatchiks vietnamiens déposé aux Etats-Unis, et à plus de 200 milliards USD celui déposé par eux dans les banques suisses[xxxviii]. Tous ces félons communistes continuent d’abreuver le peuple de mensonges lénifiants pour leur vanter la douceur de vivre dans un Vietnam en marche vers la modernité, mais eux-mêmes prennent la précaution d’envoyer par avance leurs femmes et enfants dans les pays capitalistes, de préférence chez le plus « honni », les Etats-Unis. Les empêcheurs de tourner en rond, à savoir ceux qui assistent les victimes d’injustice, les « démocrates », les citoyens ouvertement hostiles au Parti ou à la Chine, sont tolérés pendant un certain temps pour faire croire à l’opinion internationale qu’ils vivent dans un pays libre, puis un beau jour ou plus souvent une belle nuit (comme c’est la coutume dans les dictatures) ils sont arrêtés, battus, emprisonnés, parfois tués. La police politique a ainsi kidnappé les démocrates les plus notoires pour les détenir on ne sait où, afin de décourager ceux qui sont tentés de participer à la manifestation générale du 5/3/2017[xxxix]; à Saigon, ceux qui ont eu le courage de manifester ont été durement réprimés, et à cette occasion ils ont découvert que les policiers les plus brutaux qui les battent cruellement sont en fait des Chinois.

Hormis la minorité des chiens de garde du régime, le peuple vietnamien refuse l’idée de tout rattachement à la Chine. Mais, trahi par ses propres dirigeants devenus « l’ennemi intérieur », comment pourra-t-il s’opposer au puissant « ennemi extérieur » quand viendra l’heure fatidique ? Le seul espoir pour le Vietnam de rester indépendant est un soulèvement général assez considérable pour renverser le pouvoir vendu de Hanoi et mettre à la place un gouvernement démocratique qui prendra à cœur les intérêts nationaux et saura nouer des alliances militaires avec les pays libres. Et cela avant un déploiement militaire chinois. Or, soumis depuis près d’un demi-siècle pour le Sud et d’un siècle pour le Nord, à l’un des plus féroces régimes politiques qui existent, les Vietnamiens ont perdu leur énergie et leur confiance en eux-mêmes. Pour se révolter, ils doivent vaincre la peur paralysante des foudres du régime qui leur est inculquée dès l’enfance.

Cependant le temps presse et nous ne pouvons assister sans réagir à la mort lente d’un peuple jadis fier et courageux. Vous tous les hommes et femmes de bonne volonté, épris de justice et de liberté, je vous adjure de vous pencher sur le drame du Vietnam ! Alertez l’opinion publique internationale pour contrer les menées annexionnistes de Pékin ! Spécialement ceux qui parmi vous avez, par vos vociférations contre la guerre du Vietnam dans les années 1960, contribué à pousser l’Amérique à l’abandon de la république du Sud-Vietnam pour la faire tomber dans les mains de la clique des sinistres assassins de Hanoi, prenez vos responsabilités et rachetez-vous en dénonçant aussi fort qu’autrefois la criminelle politique chinoise !  Montrez aux Vietnamiens qu’ils sont activement soutenus, et par la chaleur de votre sympathie communiquez-leur la flamme qui leur manque pour surmonter leur peur ! Aidez-les à reprendre leur droit de vivre libres dans un pays libre !

 

 

 

 

Paris, le 9/3/2017, version révisée le 19/4/2017

Đặng Phương Nghi

Archiviste-paléographe

Em : dpnghi@gmail.com

[i] Lire les rares mentions écrites de ces exactions de l’armée chinoise dans : WT news, NY Times viết gì về sự tàn bạo của TQ trong chiến tranh biên giới 1989 (http://www.vtc.vn/quoc-te/new-york-times-viet-ve-su-bao-tan-cua-trung-quoc-trong-chien-tranh-bien)  et Hùng Dũng, Trung Quốc ra lệnh hễ gặp người VN nào là giết hết, in Người Việt Ukraina, 18/2/2016 (http://nguoivietukraina.com/chien-tranh-bien-gioi-1979-tq-ra-lenh-gap-nguoi-vn-la-giet-het.nvu) .

 

[ii]Il existe un mystère sur l’article de Kerby Anderson Nguyên qui donne ces renseignements avec extraits des documents parce que le blog « hoilatraloi » qui l’a lancé le premier en juin 2013 est introuvable, mais l’article étant aussitôt diffusé, on peut le lire sur plusieurs sites vietnamiens qui l’ont repris intégralement. Il faut se rappeler qu’internet  est devenu le support de toutes sortes de manipulation et de désinformation, et qu’un effort d’analyse et de tri est exigé du lecteur s’il ne veut pas être trompé. Etant tombée moi-même dans le panneau du canular WikiLeak que j’ai cité dans la 1ère mouture de ce texte, par acquis de conscience j’ai dû consulter tous les documents disponibles sur le net concernant le fameux traité. Compte tenu du fait que ce qui est affirmé sur un document « secret » est par définition invérifiable et donc sujet à caution, on peut supposer au moins qu’il s’agit d’une fuite habilement maquillée par un haut responsable du parti mécontent, car le ton et le style des extraits semblent authentiques. Quoiqu’il en soit, en 2014 la rumeur a tellement enflé sur l’annexion du Vietnam en 2020 — surtout suite à la circulation de deux extraits l’attestant dans deux  journaux chinois, New China press et Global times, qui ne font que reprendre un communiqué publié après la conférence de 1990 dans le Quotidien de Sichouan (cf. partie 1 de la série d’articles de Huỳnh Tâm sur la conférence, éditée dans son blog où il cite l’original chinois : http://huynh-tam.blogspot.fr/201410/ly-bang-tiet-lo-hoi-nghi-thanh-o-1990.html#more : Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: “Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!” [2] [2] (越南表示愿意接受作为中央政府在北京的一个自治区为中国的内蒙古,西藏,广西…中国方面同意接受并同意上述建议和越南为期30年的越南共产党解决必要加入中国民族的大家庭中的步骤!) — que de nombreuses voix se sont élevées pour réclamer la publication du traité, mais à la place de la transparence demandée, le pouvoir s’est contenté de laisser le Bureau central de la propagande du parti nier l’acte de trahison dans une longue explication du traité qui ne convainc personne. Depuis, de nombreuses confirmations par des cadres hauts placés fuitent via Youtube, dont par exemple celle certifiée par la fille d’un général (cf. https://www.youtube.com/watch?v=JpZai9CVl4I) .

 

[iii] Cf. article de Đặng Chí Hùng, Bằng chứng bán nước toàn diện của đảng cộng sản VN, dans le blog Sinicization of Indochina qui donne une copie de cet accord.( http://namviet.net/blog-hanhoa/?p=657#.WNaot7g8acM) : Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” – số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao như sau:“Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau để giữ tình đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như sau:

Điều 1: Chính phủ Trung Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.

Điều 3: Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên ban theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết (Phụ lục đính kèm).

 

Điều 4: Trước đảng và chính phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực thi kể từ ngày hôm nay 12/06/1953.

 

Điều 5: Chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh (Phụ lục đính kèm).

 

….Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”

 

[iv] Tant qu’il n’y a pas de vérification sur place avec cartes à l’appui, les chiffres sur la superficie cédée ne peuvent être qu’une estimation plus ou moins vraisemblable. Cependant, par une simple soustraction des données officielles sur la superficie totale du Vietnam avant et après 2000, on peut en tirer un chiffre valable. Ainsi il est reconnu par les géographes et les scientifiques du pouvoir actuel qu’en 1943 les forêts couvraient 43% de la superficie du pays et représentaient 14,3 millions d’ha, ce qui correspondait donc à une superficie totale de 33,262790 millions d’ha ou 332.627 km2 ; pour la superficie totale actuelle, aucun chiffre officiel n’est donné, mais dans l’ étude de : Will de Jong, Dô Dinh San et Tran Van Hung, Forest rehabilitation in Vietnam, faite à Hanoi en 2006, il est mentionné le chiffre de 331.210 km2 pour la superficie totale du pays, ce qui revient à une perte de 1.504 km2 !

 

[v] On peut avoir une idée sur la question des frontières en lisant l’article  du 6/11/2013 de Trương Nhân Tuấn,  Việt Nam có mất đất mất biển qua hai hiệp định phân định biên giới, dans le blog Những vấn đề Việt Nam : http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/11/viet-nam-co-mat-at-mat-bien-qua-hai.html .

 

[vi] Cf. partie 4 de la série d’articles de Huỳnh Tâm citée supra.

 

[vii] Comme signe de cette incorporation, en décembre 2009, le gouvernement vietnamien fit changer les modèles d’uniformes de l’armée vietnamienne. Et l’on s’aperçut qu’ils sont quasiment les copies de ceux de l’armée chinoise, la seule différence étant un galon sur le chapeau des Vietnamiens. Si une invasion de l’armée chinoise a lieu, comment le peuple pourra-t-il distinguer les ennemis des amis (si tant est que l’armée populaire VN reste amie !). Cf. l’article de Nguyễn Văn Tuấn, Liệu quân phục VN có made in China ? du 18/7/2011 in Vietinfo : http://m.vietinfo.eu/tu-lieu/lieu-quan-phuc-viet-nam-co-made-in-china.html .

 

[viii]Historiquement et traditionnellement les archipels des Paracel et Spratly font partie du Vietnam. Ces îles inoccupées et battues par le vent étaient ignorées de tous les autres pays, à l’exception du pouvoir royal vietnamien qui créa même au 18e siècle une patrouille maritime spéciale pour les surveiller. Au début du 20e siècle, la reconnaissance de leur position stratégique dans la maîtrise de la circulation maritime ainsi que leur richesse en guano commença à exciter l’appétit des pays voisins, en particulier de la Chine, cet appétit s’aiguisant de plus en plus avec la découverte d’importants gisements de pétrole et de gaz sous leurs eaux. En 1974, profitant du retrait des USA du conflit vietnamien, la Chine s’empara par la force des îles Paracel, puis en 1988 elle mit à profit sa guerre avec la Vietnam pour occuper, toujours par la force, les Spratly. Son audace était encouragée par une sorte de concession du pouvoir de Hanoi attestée dans une lettre à Zhou Enlai du premier ministre Phạm Văn Đồng datée de 1958, par laquelle le Vietnam reconnaît la souveraineté de la Chine dans une limite des eaux territoriales englobant les deux archipels. Ce document longtemps caché par Hanoi, fut divulgué par Pékin en 1980 dans une brochure de propagande anti-vietnamienne lors de la guerre frontalière, mais par peur de la réaction du peuple très attaché à ces îles, le pouvoir communiste vietnamien feint d’en ignorer l’existence puis en minimise la portée !   Ce qui explique qu’en mai 2014, lorsque l’arrivée d’une plate-forme de forage chinoise sur les eaux entourant ces îles donna lieu à de grandes manifestations anti-chinoises au Vietnam (cf. article : Des tensions qui poussent le Vietnam à s’allier avec un vieil ennemi, in Openmind, news, 12/07/2016 : https://www.opnminded.com/2014/11/07/nouveaux-lieux-paris-eko-monseigneur-club-phantom.html) ,  une émission en langue vietnamienne de la télévision pékinoise « Voix populaire » datée du 18/5/2014 répondit par ce communiqué : « … Nous accordons que les Paracel et Spratly et les côtes ( ?)  appartiennent au Vietnam, mais les communistes vietnamiens (représentés) par le premier ministre Phạm Văn Đồng ont signé une note diplomatique le 7/6/1958. La Chine possède tous les documents incontestables sur la région maritime et la Chine a le droit d’exploiter le pétrole et le gaz vietnamiens. Les communistes vietnamiens ne peuvent rien y faire. Vous tous, les dirigeants dans le bureau politique du parti communiste vietnamien, nous ne comprenons pas pour quelle raison vous ne proclamez pas à tout votre peuple que vous avez signé et reconnu que les Paracel, Spratly et les côtes ( ?) vietnamiennes sont sous la souveraineté de la Chine et laissez tout le ministère des affaires étrangères et toute la marine se tromper et continuer leur agression… Nous avons assez de forces prêtes à  écraser tous les bateaux de guerre vietnamiens, avec la puissance de la Chine nous vaincrons tout le Vietnam en seulement une heure. Nous nous emparerons des côtes vietnamiennes et nous prendrons tout ce que le Vietnam doit payer pour la leçon, comme en 1979. Vous, les dirigeants dans le bureau politique du parti communiste vietnamien, vous êtes des « mangeurs de bouillie qui pissent dans le bol », vous devez à la Chine une dette de plus de 870 milliards (de yuans ou de dollars?) à propos de la guerre de Điện Biên Phủ et la guerre contre les Etats-Unis. Et maintenant que vous avez remis les îles et la mer à la république populaire chinoise, rien ne justifie que vous ne le fassiez pas connaître publiquement à toute la population pour continuer à vous opposer à la Chine ; c’est là un acte effronté du Vietnam, nous le dénonçons catégoriquement et donnerons une leçon au Vietnam. » Il s’agit là d’un document précieux car pour la première fois on voit la Chine déclarer publiquement que les Paracels et Spratly appartiennent (du moins appartenaient auparavant) au Vietnam, alors qu’elle a toujours prétendu avec des preuves douteuses à l’appui que sa souveraineté sur ces îles date des temps historiques.   (https://www.youtube.com/watch?v=RCLlsvpRNhg)

[ix] Cf. Wikipédia en français dans l’article : drapeau de la république populaire de Chine. Jeunes pionniers de Chine (Grand Détachement). Quant au drapeau de Fujian (étoile jaune sur fond bleu et rouge) il a été choisi pour représenter le Mouvement de libération du Sud-Vietnam pendant la 2e guerre d’Indochine.

[x] La publication de la traduction du livre de Hồ Tuấn Hùng a suscité de nombreux articles et commentaires critiques. L’argumentation la plus solide à mes yeux est celle de Trần Việt Bắc, Hồ Chí Minh : Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (http://www.geocities.ws/xoathantuong/tvb_hcmdongchi.htm) .

 

[xi] Cf. Interview de Vũ Minh Giang, vice-président de l’association des sciences historiques, dans « Ghi nhận sự hy sinh của các liệt sĩ trong chiến tranh biên giới 1979 », in Báo mới,  16/2/2017(http://www.baomoi.com/ghi-nhan-su-hy-sinh-cua-cac-liet-si-trong-chien-tranh-bien-gioi-1979/c/21554895.epi) .

 

[xii] Cf. article dans RFA du 12/1/2017, Cưỡng chế tượng Trần Hưng Đạo tại tư gia là trái luật : http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/will-statue-inside-private-property-be-evicted-illegally-ha-01122017080011.html/ .

 

[xiii] Sur les barrages chinois, cf. entre autres : Jean-Paul Yacine, Controverses autour des barrages chinois sur le Mékong, in Question Chine 27/11/2011 (http://www.questionchine.net/controverses-autour-des-barrages-chinois-sur-le-mekong); Samuel Bollendorf, Le rapt du Mékong, sur son siteweb http://www.samuel-bollendorff.com/fr/le-rapt-du-mekong/ ; pour une vue plus scientifique, l’étude de : Michel Ho Ta Khanh, Le Vietnam et les aménagements hydrauliques dans le bassin versant du Mékong www.recherches-internationales.fr/RI98/RI98HoTaKhanh.pdf .

 

[xiv] Sur les conséquences des barrages, lire : Arnaud Vaulerin, Delta du Mékong, le triangle des inquiétudes, in (journal) Libération, 7/2/2016 (www.liberation.fr/planete/…/delta-du-mekong-le-triangle-des inquietudes_1431029) ; Arnaudet Lucie, Arnoux Marie, Derrien Allan, Schneider Maunoury Laure, Conséquences environnementales, sociales et politiques des barrages, Etude du cas du Mékong, ENS, Ceres-Erti, 2013 (www.environnement.ens.fr/IMG/Mekong.pdf) .

 

[xv] Les manœuvres des commerçants chinois sont si cruelles et tordues que beaucoup les attribuent à une rumeur malveillante. Malheureusement ce n’est que trop vrai. Il suffit de lire les articles récurrents des journaux vietnamiens du Vietnam, par ex. le très officiel « An ninh thủ đô » (Sécurité de la capitale) du 18/6/2015 (http://anninhthudo.vn/chinh-tri-xa-hoi/muon-van-thu-doan-ban-cua-thuong-lai-trung-quoc-nhieu-loan-thi-truong-viet-nam/616728.antd) et de regarder les clips sur ce sujet, comme par exemple celui-ci https://www.youtube.com/watch?v=Nlsf6BrniVg.

 

[xvi] Sur l’introduction délibérée de ces élevages destructeurs, voir l’article de Lê Thọ dans le journal de Thừa Thiên du 6/7/2016 (http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/dan-bo-lua-trong-sen-bai-hoc-oc-buou-vang-lap-lai-3328574/), et celui de Ngọc Tài et Thành Nhân, Bất thường một dự án trồng sen, in Tuổi trẻ, 4/2/2017 (http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/dan-bo-lua-trong-sen-bai-hoc-oc-buou-vang-lap-lai-3328574/) .

 

[xvii] Cf. un des nombreux articles sur le sujet dans VT news du 10/2/2017 : (http://www.vtc.vn/xa-hoi/phong-sinh-ca-chim-trang-xuong-song-hong-nhieu-co-quan-chuc-nang-vao-cuoc-d302781.htm) .

 

[xviii] Sur la déforestation au Vietnam une étude sérieuse mais un peu datée : Yann Roche et Rodolphe de Koninck, Les enjeux de la déforestation au Vietnam, in Vertigo, vol.3, n°1, 4/2002 (https://vertigo.revues.org/4113) .

 

[xix] La concession des forêts aux exploitants chinois officiellement reconnue en 2014, date en fait depuis au moins 2010. Cf. la protestation publique en 2010 de deux vieux généraux, Đồng Sĩ Nguyên et Nguyễn Trọng Vĩnh contre la décision de 10 provinces « permettant à 10 entreprises étrangères de louer pour une longue durée les terres des forêts primaires afin d’y planter des forêts de matière première sur une superficie totale de 305.533 ha dont 264.000 ha reviennent à Hong Kong, Taiwan et la Chine, 87% de ces forêts se trouvant dans les importantes provinces frontalières… Les provinces qui vendent leurs forêts sont suicidaires et nuisent au pays, quant aux pays qui achètent nos forêts ils détruisent exprès notre pays et sèment cruellement et impitoyablement la catastrophe à notre population. » (http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2010/02/100222_forestation_projects.shtml)

 

[xx] Cf. Daniel Drollette Jr, A plague of deforestation sweeps across SEA, Yale environment 360, 20/5/2013 (http://e360.yale.edu/features/a_plague_of_deforestation_sweeps_across_southeast_asia) ;  Deforestation in Vietnam is condoned by authorities : official, in Thanh niên news, 11/4/2015 (http://www.thanhniennews.com/society/deforestation-in-vietnam-is-condoned-by-) .

 

[xxi] L’expression vietnamienne pour le précieux héritage ancestral est « rừng vàng biển bạc » = forêts d’or et mer d’argent. Les forêts ont quasiment disparu, quant à la mer, elle est à moitié morte depuis la catastrophe Formosa.

 

[xxii] Officiellement cependant la Chine n’est que le 2e investisseur au Vietnam. Cf. Le courrier du Vietnam, 16/3/2017 (http://lecourrier.vn/flux-dinvestissement-direct-chinois-au-vietnam/393651) .

 

[xxiii] Cf. Jean-Claude Pomonti, Le Vietnam, la Chine et la bauxite, in le monde diplomatique, 3/7/2009 (http://blog.mondediplo.net/2009-07-03-Le-Vietnam-la-Chine-et-la-bauxite) .

 

[xxiv] Les protestations contre ces usines de bauxite ont fait le sujet d’une thèse de doctorat : Jason Morris, The vietnamese bauxite mining controversy : the emergency of a new oppositional politics, University of California, Berkeley, 2013 (http://digitalassets.lib.berkeley.edu/etd/ucb/text/Morris_berkeley_0028E_14018.pdf) .

 

[xxv] Déjà la pollution causée par ces usines affecte la santé des habitants du coin. Cf. l’article de Tuệ Lâm,Vỡ đường ống nhà máy bauxite…  republié sur le site de Viet An group: http://www.vietan-enviro.com/vo-duong-ong-nha-may-bauxite-nguy-co-tham-hoa-moi-truong-giong-formosa-o-tay-nguyen/ .

 

[xxvi] Cf. After many years Vietnam authority, investor, still struggle to justify bauxite plants, in Thanh niên news, 7/4/2015 (http://www.thanhniennews.com/business/after-many-years-vietnam-authority-investor-still-struggle-to-justify-bauxite-plants-40660.html) .

 

[xxvii]Cf. Brian Hioe, Continued protests in Vietnam against Formosa steel, 10/14/2016, in New Bloom, 0ctobre 2016 (http://newbloommag.net/2016/10/14/formosa-steel-vietnam-october/) .

 

[xxviii] Cf. Prashanth Parameswaran, Vietnam may crack down on dam investors, in The diplomat, 3/1/2015 (http://thediplomat.com/2015/01/vietnam-may-crack-down-on-dam-investors/) . Le chiffre de 7000 barrages donné par l’auteur, qui doit comprendre aussi les petits barrages des particuliers, non répertoriés officiellement, dépasse de loin celui que l’on obtient en additionnant les projets d’unités hydroélectriques reconnus par la compagnie nationale d’électricité EVN : 888 unités en 2016, 1586 en 2030 – Cf. Phạm Thu Hương, Hố Hô và nghịch lý thủy điện nhỏ ở Viêt Nam, in CVD, 3/11/2016 (https://cvdvn.net/2016/11/03/ho-ho-va-nghich-ly-thuy-dien-nho-o-viet-nam/) .

 

[xxix] Cf. Revival plan for massive steel plant tests Vietnam after Formosa disaster in VNExpress, 14/9/2016 (http://e.vnexpress.net/news/news/revival-plan-for-massive-steel-plant-tests-vietnam-after-formosa) .

 

[xxx] Cf.Clip sur la pollution du fleuve Hậu qui mourra complètement après la mise en activité de la papeterie  : https://www.youtube.com/watch?v=KRqrGDnWkc8

 

[xxxi]Sur l’empoisonnement volontaire du Vietnam par les centrales thermiques, voir l’article de Lê Anh Hùng, Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân và hiểm họa mất nước, publié dans la page Facebook de Chân trời mới media (https://www.facebook.com/chantroimoimedia/posts/901893309854222) .

 

[xxxii] Cf. ZS, 10 aliments en provenance de Chine remplis de plastique et cancérigènes, in Alnas, 2/11/2015 (http://www.alnas.fr/actualite/alimentation-sante/article/sante-10-aliments-en-provenance-de) ; Alain Sousa, Aliments chinois, faut-il en avoir peur ?, 5/12/2008, in Doctissimo nutrition (http://www.alnas.fr/actualite/alimentation-sante/article/sante-10-aliments-en-provenance-de) .

 

[xxxiii] Cf. article de Saigoneer du 7/4/2016 : Vietnam could have most cancer cases worldwide by 2020… (http://saigoneer.com/saigon-health/6714-vietnam-could-have-most-cancer-cases-worldw) .

 

[xxxiv] Cf. un clip de Jenny Trân : https://www.youtube.com/watch?v=wk7W2hihZg8 .                              .

 

[xxxv] Ces chiffres officiels sont très minimisés. D’après Vũ Quang Việt, un ancien chef du service des statistiques de l’Onu, la dette publique réelle du Vietnam s’élève à 431 milliards USD, chiffre comprenant à la fois la dette de l’Etat et celle des entreprises étatiques (324 milliards), équivalant à 210% du PNB ; cependant, de l’aveu même de la banque d’Etat les réserves en devises étrangères du pays ne montent qu’à 40 milliards USD, et chaque année le budget national est en déficit de 5 à 6% du PNB. Cf. article de Lê Dung/STBN, Không phải 62% GDP mà nợ công VN đang là 210% GDP, in Việt Nam thời báo, 20/2/2017 ( http://www.ijavn.org/2017/02/vntb-khong-phai-62-gdp-ma-no-cong-viet.html).

 

[xxxvi] Cf. article de Bích Diệp, World bank sẽ chấm dứt …, in Dân trí, 22/3/2016 (http://dantri.com.vn/kinh-doanh/world-bank-se-cham-dut-oda-uu-dai-voi-viet-nam-vao-nam-2017-20160322141524964.htm) .

 

[xxxvii] Par exemple, à la date du 19/3/2017, les 3700 employés du Service de l’irrigation de Hanoi ne sont toujours  pas payés depuis novembre 2016 (https://www.youtube.com/watch?v=xULH0b5ZfPg) .

 

[xxxviii] Ces chiffres sont vraisemblables vu les sommes de chaque fois plusieurs millions USD saisis chez des cadres  moyens corrompus que les autorités se décident à poursuivre, et surtout ils s’accordent avec les révélations de Poliburos.net en 2000 et d’un cadre de banque suisse en 2005 sur les sommes astronomiques déposées dans les banques étrangères. Cf. (https://hon-viet.co.uk/NT_VietNamCoKhoang700DangVienCoTaiSanTu100Den300TrieuDoLa.htm) . Cette évasion d’argent volé au peuple explique le tarissement des réserves en devises de l’Etat et l’épuisement de ses ressources.

 

[xxxix] L’appel à la manifestation générale est lancé par le R.P. Nguyễn Văn Lý, porte-parole d’un «Rassemblement des citoyens de la Nation » (Tập hợp quốc dân Việt) dont les autres membres veulent rester dans la clandestinité. C’est un appel pour une manifestation non pas ponctuelle, mais continuelle, tous les dimanches et jours de fête, jusqu’à ce que le nombre de manifestants se multiplie assez pour faire pression sur le pouvoir  et changer la donne. Jusqu’ici, l’appel est surtout suivi au Centre et au Sud, le Nord bouge encore peu.

CALL TO ALL LOVERS OF JUSTICE AND FREEDOM, NATURE AND DEMOCRACY – S.O.S. VIETNAM

Đặng Phương Nghi

CALL TO ALL LOVERS OF JUSTICE AND FREEDOM, NATURE AND DEMOCRACY

S.O.S. VIETNAM

Under threat of genocide and annexation by China!

 

A machiavellian plan by China for the annexation of Vietnam is being implemented with the complicity of the communist power in Hanoi to the general indifference!

 

In 1979, China invaded Vietnam in retaliation for Vietnam’s intervention in Cambodia. The resulting Sino-Vietnamese border war lasted not only a few months as per the official version, but ten years, until 1989. It was marked by unheard-of atrocities from a 620,000 strong Chinese army that razed everything in its wake: they destroyed four entire cities and villages, massacred all their inhabitants including children after gang raping the women[i] . Yet, when their ally and sponsor the Soviet Empire fell in 1990, the dictators in Hanoi, rather than lose their power by reconverting themselves as democrats as in Eastern Europe, preferred to pledge allegiance to China and offered their country in exchange for Beijing’s support. The secret treaty signed in Chengdu had its brief content only disclosed in April 2013: documents stolen from the Vietnamese Secret Service of Defense were handed over to Foreign Policy Magazine by General Hà Thanh Châu, after he applied for asylum in the United States[ii]. According to this treaty, the dictators in Hanoi commit themselves to the gradual transformation of Vietnam into a Chinese province like Tibet. The evolution will take place in three stages of twenty years each:

 

2000-2020: Vietnam becomes an autonomous province,

 

2020-2040: Vietnam becomes a dependent province,

 

2040-2060: Vietnam trades its name for Âu Lạc (named after two ancient ethnic groups living between the two countries) and will be subject to the administration of the governor of GuangZhou.

 

The 1990 surrender was merely the explicit execution of what Hồ Chí Minh pledged in return for the military aid granted by Mao ZeDong during the First Indochina War. By the “Vietnam-China Cooperation Agreement” signed on June 12th1953 in GuangXi, Hồ promised to thereafter “merge the Vietnamese workers’ party with the Chinese Communist Party” and to make “the Vietnamese democratic republic an element of the People’s Republic of China”[iii].

 

 

Under the pretense of active cooperation with the Big Brother from the North, the process of tibetization of Vietnam took place as follows:

 

 

Political Bringing to Heel:

 

– In 1999, a land border treaty stipulated the transfer to China of 900 km²[iv] (equivalent to 60% of the area of the Thái Bình province), including half of the Bản Giốc waterfall and the Nam Quan border crossing, two historical sites dear to the heart of the Vietnamese.

 

– In 2000 by a treaty on the Gulf of Tonkin the dictators in Hanoi ceded to China nearly half (44% or 16000 km²) of the territorial waters[v] in the gulf as well as the beach of Tục Lãm. The Chinese were also granted the right to exploit economically the riches of the gulf in the Vietnamese zone, under guise of cooperation. These two treatises are actually but the application texts of three treaties signed by Hồ Chí Minh with Beijing in 1957, 1961, 1963[vi].

 

– In 2013 ten resolutions on cooperation allow Beijing to control the entire policy-making of Vietnam. Chinese people from China or formerly from Vietnam (those who left in 1978) were specially trained and placed by the Chinese government in various leadership positions at all levels within all Vietnamese institutions, especially in the police and the army, up to the highest state positions: At present, President of the Republic Trần Đại Quang, Deputy Prime Minister Hoang Trung Hải considered Beijing’s right-hand man, Deputy Speaker Tô Huy Rứa and Minister of Police Tô Lâm are Chinese or from Chinese origin. Thus, executives and dignitaries who are rebellious to sinicization are quickly spotted and neutralized: Some twenty high-ranking officers known for their hostility to China, including General Staff Đào Trung Lịch and the Commander-in-Chief of the 2nd Military Zone Trần Tất Thanh, disappeared in an “aircraft accident due to fog” in May 1998; more recently, in July 2016, just three months after his appointment, General Lê Xuân Duy, another commander-in-chief of the same zone (very important because of its neighborhood with China and Laos), war hero of the Sino-Vietnamese War of 1979, experienced a rather “sudden death”.

 

– In 2014, the treaty on a “project for two strategic corridors” grants China the right to economically exploit the six border provinces (that is, actually, the destruction of the country’s magnificent primary forests) and the Điện Biên region, as well as the establishment of two strategic corridors, Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng and Móng Cái – Hà Nội.

 

– In January 2017, Nguyễn Phú Trọng, the current secretary-general of the party, went to Beijing to sign 15 conventions promoting closer cooperation between the two countries, in particular in the fields of the military, the police and culture. This cooperation should be understood as a greater subjection, with the eventual incorporation of the Vietnamese army and police into the Chinese army and police[vii], that is, the end of Vietnam.

 

– As for the occupation of the Paracel and Spratly islands[viii] by China, the dictators in Hanoi endorse it in a way for they repress any public demonstration against it, and they do not protest much or with much vigor against the Chinese building and drilling there.

 

All these treaties were followed by economic agreements enabling Beijing to send en masse its nationals to the most strategic places of Vietnam, under cover of being employees and workers:

 

– Agreement for two joint ventures (actually Chinese ventures since the majority of the capital comes from China) to exploit bauxite. These companies are installed on the “roof” of the Highlands of the Center region, from where one can dominate all Indochina.

 

– Agreement for the exploitation by the Chinese of the primary forests, which amounts to letting China destroy the most beautiful natural resources of Vietnam while giving it control on the most crucial points of the north of the country.

 

– Permission for Chinese companies to settle on all the Vietnamese coast, from Móng Cái to Cà Mau.

 

– Possibility for the Chinese to found Chinese cities throughout the country as in Bình Dương, where the only language used is Chinese and where trade is made in Chinese yuan.

 

– Permission for Chinese nationals to come to Vietnam without a visa, to move and settle freely in Vietnam where they can marry Vietnamese women whose children will become systematically Chinese. On the other hand, a visa is still required for Vietnamese people going to China, and many Chinese districts in Vietnam are prohibited to Vietnamese people, and even to Vietnamese public authorities.

 

The tacit recognition of Vietnam’s belonging to China shows up in the adoption of a 6-star Chinese flag: a large star surrounded by five instead of the four small official stars. There the Vietnamese people are symbolically represented as one new conquered people, on an equal footing with the peoples of Manchuria, Inner Mongolia, Tibet and the Uighur country. This Chinese flag appeared for the first time in 2011 in the background behind a speaker of the VTV official television; it aroused such an indignant interrogation that it was quickly withdrawn; yet it was seen again in thousand copies agitated by the Vietnamese schoolchildren for the welcome of the Chinese vice president Xi Jinping in 2012. Faced with the general outcry, the government bald-facedly blamed the fact on a technical mistake by the flag manufacturers (sic!). This did not prevent said flag from appearing in a meeting room of Vietnamese and Chinese high-ranking officers in Lào Cai in 2015 and currently in many police stations.

 

Moreover, the red flag with a yellow star in the middle which officially represents communist Vietnam, as imposed by Hồ Chí Minh to Vietnam, is but the emblem of the young Chinese communist pioneers (and not that of the Fujian province as the rumor claims)[ix]. This adds up with the strong probability that the famous Hồ Chí Minh, identified with the Vietnamese revolutionary Nguyễn Tất Thành alias Nguyễn Ái Quốc, was in fact a Chinese imposter, his look-alike Hu ZiZheng (Hồ Tập Chương) alias Hu Guang (Hồ Quang): he had been commissioned by the Communist International to personify the Vietnamese Soviet spy after his death in 1932 in the jails of Hong Kong. This identification was revealed in 1946 by a Taiwanese author, Wu ZhuoLin (Ngô Trọc Lưu), in a book titled “Hồ Chí Minh” written in Japanese; it was confirmed in 1949 by a local CCP newspaper, Gang Shan (Cương Sơn); and it was clearly reaffirmed in a controversial biography on “Hồ Chí Minh’s half-life” published by another Taiwanese scholar, Hu JunXiong (Hô Tuấn Hùng)[x] in 2008. This trait speaks volumes about the annexationist machination of Chinese leaders and the depth and duration of their determination to conquer Vietnam.

 

There is no surprise after this that the Chinese behave as arrogant masters. Some high dignitaries in Beijing do not deprive themselves of publicly calling Vietnamese leaders “ungrateful bastards” when Hanoi dares shyly protest against one of their abuses.

 

Vietnam’s submission to China means the violent repression of all anti-Chinese demonstrations: demonstrations against the occupation of land on the northern border; against the occupation of the traditionally Vietnamese Paracel and Spratly Islands coveted by most countries in the region for its rich oil deposits amounting to 25% of the world’s reserves (according to Chinese experts), that China took from Vietnam in 1974 and 1988; or against the establishment of bauxite plants in an environmentally sensitive region in 2009-2011; etc. Hundreds of patriotic activists were arrested, beaten and sent to prison where many of them died as a result of ill-treatment. Repression, moreover, is still the norm, as for instance in recent months towards protestors against the Formosa company (Taiwanese by its name, with its seat in Formosa, but Chinese by its capital and therefore its management).

 

 

Cultural subjection:

 

Political expansion is hardly conceivable without cultural influence. For Beijing this influence can only be understood by the sinicization of the conquered people. Since the Vietnamese are destined to merge into the great Chinese melting pot, it is necessary to erase the traces of hereditary antagonism in them and to deprive them at the same time from the pride of their historical past. Thus, Beijing imposed various measures on Hanoi:

 

– Obliviate the valiant resistance to the Chinese army in the war of 1979-1989: To the helpless indignation of the veterans, Hanoi had to desecrate the graves of Vietnamese soldiers who died on the northern border. Anything about that war and their heroism was erased from their graves. On the other hand, cemeteries and monuments were erected in honor of the Chinese soldiers who fell in Vietnam. Anti-Chinese publications, abundant during the war, went missing entirely; and henceforth the rare mentions of this war in official history textbooks fit in eleven lines, such that the young Vietnamese ignore its very existence[xi]. On the annexations of frontier lands as well as of the Paracel and Spratly Islands, a radio silence is strictly observed, and also on the frequent abuses by the Chinese army such as the strafing of fishing boats or the shooting down of Vietnamese aircraft off the territorial waters of Vietnam, half of which was appropriated by China.

 

– Avoid the glorification of the great heroes of history honored for their victorious struggle against the Chinese invader. There were discussions about removing their statues from public places, but the overly sensitive subject was put aside and the authorities were content to remove those in private houses (a recent case being the statue of General Trần Hưng Đạo, a great victor against the Mongols, erected in the house of a resident of the province of Lâm Đồng[xii]).

 

– No assimilation can take place without language adoption. Unlike English, a language that is very flexible and easy to learn, unfortunately for China’s hegemonic ambitions, the Chinese language with its ideographic writing lends itself poorly to spreading internationally and does not appeal to the Vietnamese. If you do not want to learn it voluntarily, you will learn it by force: decrees were therefore issued at the end of 2016 to impose for the following year onwards Chinese as a compulsory first foreign language in secondary school and to introduce Chinese as a second language in primary school. At the moment programs entirely in Chinese are broadcasted by the Vietnamese radio and television; and even in the Vietnamese programs, Chinese songs are interspersed among national music.

 

 

Destruction of the economy:

 

Hanoi and Beijing both had to keep secret the contents of the 1990 treaty for fear of the unanimous revolt of the Vietnamese people—who as a result of the lessons of the history are animated by a visceral hostility towards the predatory neighbor. On the one hand, Beijing wanted to avoid having to face 90 million resistance fighters when they officially proclaim the annexation; on the other hand, they coveted Vietnam mostly for its mineral wealth (especially bauxite and oil) and its favorable strategic situation in South-East Asia; thus, they verily connived an enterprise of genocide against the Vietnamese people, with a view to a repopulation by Chinese people; and this enterprise began immediately after they signed the treaty. Faced with the methodical destruction of the economy and the parallel poisoning of all their sources of life, young able Vietnamese have been and will be driven to emigrate; those who remain will be reduced over the years to the sick and impotent, while coming children are destined to be weak or deformed.

 

 

Destruction of agriculture:

 

Vietnam derives its main resources from its thriving agriculture that still occupies more than half of its population, from its fisheries, its tourism, and also its oil (since 2000). The food crop for which Vietnam is still the second largest producer in the world and the third largest exporter, was therefore Beijing’s first target:

 

The vast Mekong Delta, Vietnam’s rice granary, depends on the annual alluvial floods that ensure its fertility. But China established a series of 6 dams in Yunnan upstream of the Mekong (4 more are planned, besides the project of two canals that will divert the water of the river in the surroundings), in particular the gigantic dams of Xiaowan (Capacity: 15 billion m³, 2010) and Nuozhadu (capacity: 23 billion m³, 2012); and now the other countries that live on the Mekong are helpless before the decline of their river economy. They cannot hold accountable the powerful China; and so the Chinese manipulate the flows of the river at their whim, without even warning the residents; they ignore the complaints of the Mekong Regional Commission in which they refuse to belong; and so these countries prefer to participate in the scramble by building their own dams with Beijing’s blessing and financial contribution (11 planned in Laos who dream of being a major supplier of electricity to the region, including the enormous Xayaburi on the main river, already being build; 2 projects in Cambodia and 2 more in Thailand[xiii]).

 

Vietnam, downstream in the delta, can only take notice of the damage: facing prolonged droughts and devastating floods, soils are depleted due to lack of sediments, compounded by salinization due to the increase in temperature and the rise of seawater; fresh water levels are declining dangerously, leading to shortages and to the fall of fish stocks; with the change of temperature, insects and fungi multiply, spreading diseases (notably the dengue fever) and destroying the crops[xiv]. To the action of dams, add the destruction of the mangroves, especially in the extreme south, in order to raise shrimps for export, at the instigation of seafood freezing companies, most of which are run by the Chinese. Without the trees to fix the land, the coasts erode and each year 500 ha (1200 acres) disappear in Cà Mau which will soon no longer have the shape of a point.

 

As a result, the area of rice fields is decreasing and their yield has dropped by 15% over the last decade; the situation is deteriorating so rapidly that there may be a risk of famine in the years to come. For paradoxically, whereas Vietnam is a large exporter of rice, its residents are often forced to eat imported rice; this is due to the fact that the major part (60%) of the crops is pre-empted by the State which buys it at very low prices from the producers (3000 đ/kg instead of 4500 đ/kg on the market), for export. Where to? mostly (40%) to China (at the price of 6000 đ/kg), which in exchange for good Vietnamese rice sells to the Vietnamese population its own poor quality rice, sometimes mixed with plastic beans called “faux rice”, at a price double or triple (up to 30000 đ/kg). Exploited and discouraged by poor working conditions, driven from a land that has become arid, a growing number of peasants abandon the profession, emigrate to the city or to neighboring countries, abandoning land to the Chinese who are eager to acquire it.

 

Determined to grab as much land as possible for their colonization, the Chinese find a thousand tricks each more diabolical than the others to ruin the reluctant peasants and push them to abandon their homes. Their subtle cruelty finds an easy prey in the little peasantry, that is poor hence greedy, ignorant and credulous :

 

– Chinese traders traveling all over the country locate peasants in difficulty and offer to buy the four clogs of their buffalo at the price of the animal; the poor things accept, thinking they can earn double since the animal killed for its hooves can thereafter be sold as meat. Since the buffalo is the working tool for the peasant, once it has disappeared, the peasant will have no choice left but to acquiesce to any suggestion from the Chinese: to fill his rice field to plant subsistence crops or shrubs, using toxic Chinese fertilizers and pesticides (which do not comply with any international standards) sold to him on credit by the merchant, who promises in return to buy him the product of his harvest at a good price. The promise is often held at least the first year; then, under any pretense (e.g. the product in question is no longer required) the merchant or another of his accomplices refuses the purchase of the product at the expected price. The peasant must content himself with selling his perishable goods at a low price. Finally over-indebted, he is obliged to cede his land to the Chinese or one of his accomplices to emigrate elsewhere.

 

– Alternatively, in areas where certain crops prosper, the trader offers to buy all the leaves of the tuber (e.g. cassava) or of the plant, or also all the roots of the plant, at a much higher price than the harvest itself. As a result, the tuber can not grow, the plant dies and the farmer is deprived of seed or seedling for the next season, while the product becoming rare on the market grows in price for the profit of Chinese importers. Again the trader offers fertilizers and pesticides for the planting of a fruit, a flower, etc., with very good yield, etc. The trick of buying the roots was used for the destruction of pepper crops, one of the riches of Central Vietnam.

 

– A hundred-year-old cultivation on the border with Cambodia, the sugar palm, is being eradicated “thanks” to the Chinese who come to propose to the peasants to buy at high prices the trunks of this palm tree. Cut in half the palm tree can only die and there is no question of replanting because the tree produces only after twenty years[xv].

 

The Chinese will to destroy has no bounds: They spread news that they are ready to buy tons and tons of leeches (or cockroaches…) for medicine purpose at good price so that poor peasants neglect field work to catch leeches, and even to breed them; some time after the Chinese merchants stop the buying, and the peasants, encumbered with huge amount of pointless leeches, set them free in the nature where they damage environment, ravage livestock and harm humans, particularly cultivators in padding fields. For somewhat smarter farmers, Chinese “experts” come to advise an increase in income by the breeding of a variety of whelk (pomacea), freshwater lobster (Procambarus), or red turtle, the flesh of which is indeed prized. However, these three species, imported from America, are terribly invasive; they soon invade rice fields, rivers and lakes, canals… killing local flora and fauna, especially young rice plants, to a degree that the FAO is alarmed[xvi].

 

Better or worse, strangers were surprised throwing baby crocodiles in the Mekong. Maybe it was only a rumor. However last month, a buddhist monk, who was even “elected” to the house of representatives, – and who is known for publicly criticizing Lý Thường Kiệt, the Great general who in 1075 won against the Chinese Song dynasty, in a war for the first time offensive and not defensive, for his “insolence” towards the Empire – certainly a Chinese agent, before a public of hundreds of people, threw into the Red River under cover of a rite of deliverance of souls, ten tons of piranhas, enough to infest the entire river and prohibit any activity there. Can you imagine such an act? Facing the general indignation, the authorities have tried to minimize the fact by declaring that those piranhas belonged to an inoffensive variety[xvii]!

 

The coffee plantations, for which Vietnam is the world’s second largest producer (and the first for the robusta variety), do not undergo a routine destruction by the Chinese, first because it is rather a product for export (only 5% is used for domestic consumption), not indispensable to the life of the population, and secondly because they want to control it: always on the lookout for the slightest opportunity to purchase at a discount, they already count on the sharp fluctuation in the price of coffee, which is causing ruin to planters who are unable to absorb a sharp fall in prices (for example in 2012).

 

 

Destruction of forests, Vietnam’s lung:

 

Thirty years of war with massive bombardment destroyed only 16 per cent (not 60 per cent, as claimed by official propaganda) of Vietnamese forests, based on mutually conflicting figures given in various articles, which show that in 1943 Vietnam was forested at 43% (i.e. 140,000 km² out of a total area of 330,000 km²), and from 1943 to 1973, 22,000 km² of forests were destroyed. But 17 years after the war, in 1990, the official forest coverage was only 92,000 km², which means that in peace time 26,000 km² of forests were destroyed, a greater area and faster than during the war. Deforestation is ongoing, despite a massive effort towards reforestation. In 2013, forests covered 39% of the territory, but 25% of these forests are made out of reforestation using low-shade and low-diversity species such as pine and eucalyptus. What more, with deforestation comes the erosion and degradation of bare soils of which 40% becomes unfit for cultivation[xviii].

 

Among the causes of deforestation, the main one is population growth, with its consequent need for space, construction, firewood (for cooking) and for agricultural and industrial development. But the most disastrous factor is organized looting of forests by Chinese operators to whom the Vietnamese government granted the concession to thousands of square kilometers near the northern border and on the highlands of the Center region[xix]This is compounded by the plunder organized by traffickers whose chiefs are usually Chinese, in collusion with local authorities, who derive from this illegal trade[xx], accounting for half of the timber trade, a profit of 2.5 billion USD per year. The deforestation of Vietnam is all the more deplorable since its ravages include beautiful rainforests, especially primary forests that are rare and valuable for their biodiversity (they shelter or used to shelter more than a thousand different species, of which 8.2% are endemic and 3.4% are protected by the United Nations): out of 10% of the area in 1996, there only remained 0.6%, i.e. 80,000 ha in 2012. In a mere 20 years, the communist regime in Hanoi managed to squander the fabulous ancestral inheritance of the golden forests (rừng vàng)[xxi].

 

 

Environmental pollution :

 

Facing the pollution that poisons their own country, Beijing had the idea of using chemical poisoning to get rid of the Vietnamese. Through political as well as financial pressures, they made Hanoi accept the installation throughout Vietnam of its most polluting industries. Already in 1990, after the end of the Sino-Vietnamese War, many Chinese people who came to or returned to Vietnam went back to trading and opening small businesses, by taking Vietnamese individuals first as front men, then as a partners in a joint venture. Even after 100% foreign-owned companies were accepted starting in 2005, knowing the Vietnamese distrust of China, many 100% Chinese companies prefer to claim to be a joint venture by allying themselves with corrupt executives, and one can say that today the vast majority of companies in Vietnam have Chinese owners[xxii].

 

Taking advantage of the population’s ignorance and of the lack of Vietnamese laws, small Chinese production units, like those of the Vietnamese themselves, we must admit, were rejecting their wastes in rivers without restraint, to the dismay of the residents. But for Beijing that was not enough, and the Chinese authorities decided to switch to a higher gear. Whereas China itself closed all its bauxite plants due to environmental damage, after repeated pressures starting in 2001, Beijing eventually obtained in 2007 the signing by Prime Minister Nguyễn Tấn Dũng of the agreement for a project of 6 bauxite plants on a 1800 km² concession, to be exploited jointly by the two countries on the Highlands of the Central region, where the third richest deposits of bauxite in the world are located[xxiii]. The location of the first two sites chosen, in DakNong and Lâm Đồng, once known, raised for the first time in Communist Vietnam a protest by scientists, intellectuals and various personalities (petition with 2,600 signatures), who mentioned considerable dangers for the environment and, consequently, for the men and for the cultivation of tea-trees and coffee-trees in the neighborhoods, not to mention the danger of installing thousands of Chinese alleged workers on the “Roof of Indochina”[xxiv]. The government ignored these concerns and arrested the leaders of the revolt. Construction of the factories therefore started in 2009. And the people are forbidden to circulate into the area as has become the rule for any large Chinese corporation. What is the result? To install the plants, thousands of acres of primary forest and crop land have been sacrificed, causing impoverishment of the inhabitants (defenseless mountain people); there is now a shortage of fresh water, much of which is captured for the manufacture of alumina; and in the event of heavy rain there are risks of spillage of red sludge out of the two pits where it is stored in the open[xxv]. An unknown number of Chinese alleged workers are present in the restricted areas, who may or may not actually be factory workers. As for the two factories supposed to bring back a lot of foreign currency to Vietnam, they have not stopped making losses[xxvi] to the point that in 2016 the Ministry of Industry and Commerce had to ask for government assistance to replace obsolete and inefficient Chinese equipments by machines with more advanced technology from other countries.

 

The ultimate in Chinese duplicity and inhumanity (until now at least) as well as in Vietnamese governmental complicity, was reached with the company Formosa. In 2008, Beijing pressured Hanoi to grant Formosa Plastics group, a Taiwanese company infamous for lawsuits against it for environmental damages, permission to establish a steel plant in the province of Hà Tĩnh in the Center region of Vietnam. For this project, the group formed a subsidiary, the Hung Nghiep Formosa Ha Tinh Company, known simply as Formosa in Vietnam, whose shares were soon bought back by Chinese companies, which in fact made it a Chinese company and no longer a Taiwanese company as many still believe. In 2010, as always through corruption and intimidation, Formosa obtained a 70-year concession for 3300 hectares in Vũng Áng in Kỳ Anh district, just in front of a deep-water port with great military importance, since 500-ton ships and submarines can shelter there. This was already an enormous privilege, since according to Vietnamese laws in force, land ownership is not recognized, only land use, and no individual or group in Vietnam can be issued a land use license for more than 45 years. Yet in addition, Formosa also benefited from a rebate on its property taxes and on its importation taxes, which did not prevent it from practicing fraud in their payment (discovered in 2016) for nearly $300 million. It also was granted the right to develop infrastructure at its leisure!

 

Despite the protests of the expropriated inhabitants, the factory was put under construction in 2012, and in 2015 a huge complex was created on its site, which can be seen on Google maps.

 

On April 6th 2016, right after the factory was completed, the inhabitants of Vũng Áng found a frightening number of dead fish on their beaches. The following days, till the 18th of April, the phenomenon spread on the coasts of the Center region, affording the spectacle of miles of dead fish estimated to number several millions. The death of the sea, which will prove to be the greatest ecological catastrophe ever seen so far, did not at first provoke any reaction from the authorities. Looking for the cause of the disaster, fishermen-divers detected pipes from Formosa that were spitting out continual jets of a strange red liquid. Then began protests throughout the country against the Chinese company. The Vietnamese authorities did not wake up until 6 weeks after the massacre to speak of a catastrophe and to induce Formosa to accept its responsibility. But instead of immediately shutting down the factory and ordering an investigation into the effects of the pollution, the government was content with a $500 million payment. This was a paltry sum with regards to the damages caused, and none of the victims saw any of it, which leads to wondering whether it was actually paid and if so who pocketed it. Yet, according to the few scientists who came to take stock of the damage, it will take decades or even centuries for the sea to heal from millions of m³ of liquid filled with heavy metals and toxic chemicals (lead, mercury, cadmium, manganese, phenol, cyanide, etc., according to a laboratory independent from the Vietnamese authorities) that Formosa rejected and keeps rejecting in its waters[xxvii]. Today it is no longer the two provinces neighboring Formosa but all four central provinces (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) that are affected and the body of red waters continues to expand and begins to reach the southern coasts. In order to survive, fishermen try to get fish from the open sea where they risk being slaughtered by armed Chinese fishermen and the Chinese navy, who have seized the Eastern sea.

 

As if Formosa were not enough, in the same region, taking advantage of the rainy season, about twenty Chinese-owned hydroelectric plants discharge the water from their basin without warning into the surrounding countryside, destroying crops and killing several hundreds of people. This kind of flooding caused knowingly and often without notice by the hydroelectric factories has finally aroused in the population a feeling of detestation towards the 7000 dams that produce 40% of the national electricity[xxviii], that Hanoi is spreading throughout the country, in imitation of the Chinese in China.

 

More importantly, in the midst of the Formosa scandal, the Chinese, in contempt of the entire world, and using the Vietnamese company Hoa Sen as a front, were granted the license for the installation of another steelworks plant of equal size in Cà Ná, Province of Ninh Thuận, in the south of the country[xxix]. If this plant comes into existence and starts to dump its waste into the sea like that of the Center region, there is no doubt that all the coastal provinces of Vietnam will become uninhabitable for its natives and that the maritime economy will collapse completely.

 

Meanwhile, to better devastate the Vietnamese environment, Beijing urged Hanoi to choose thermal power stations, particularly very polluting coal-based ones that China just banished from its own territory, instead of windmills, much cleaner and more suitable for a country with a coast of 3260 km, to develop its energy production. While at it, Beijing got Hanoi to accept the setting up of Chinese thermal power plants on the most important areas of Vietnam, especially all along the littoral, for example the Vĩnh Tân 1 plant, at the moment the biggest thermal power plant in Vietnam, worthing $1.75 billion, located on 58 ha nearby a maritime protection zone in Bình Thuận province. All these units using Chinese outdated technology have bad impact on environment : thus the Duyên Hải 1 plant, hardly in activity on January 2016 already causes respiratory problems to neighbouring inhabitants and threatens their salt production[xxx].

 

To perfect the destruction of the South, in 2008 the Chinese, through the company Lee & Man, were granted the construction of a gigantic paper mill to produce 420,000 tons of paper per year on the Sông Hậu, the great river feeding the delta, in the face of unanimous protests[xxxi]. This plant, which is supposed to be in operation this year, will certainly kill the river with its enormous quantities of toxic waste including hydroxide, and will ruin rice crops as well as aquaculture in the West.

 

Unlike other foreign companies, that are not harmful, Chinese companies located all over Vietnam are all very polluting by the nature of their products and blithely dump their waste into the atmosphere, the soil and the waters. Vietnamese lakes and rivers are already blackish or reddish depending on the substances that are spilled there. The soil is impregnated with fertilizers and pesticides that contaminate crops. China is even suspected of exporting its own toxic waste to Vietnam, with or without a license from Hanoi, and of burying it in various parts of the country, based on the testimony of a few repentant accomplices. Besides, where does Formosa get so much toxic waste from, when, according to their own declaration, their stoves will not quite be ready until some time in 2017?

 

 

Consequences of pollution:

 

The Vietnamese population is extremely scared now for its health. Beside the air that they breathe, the water they use for their ablutions and their washing, all their food is now likely to poison them. Fruits and vegetables are not only stuffed with highly harmful Chinese pesticides but also dangerous Chinese chemicals that either magnify them or prolong their apparent freshness. Moreover, since the Sino-Vietnamese treaties, food products imported from China invade the Vietnamese markets and they are even worse: there is no week without the newspapers reporting cases of intoxication caused by one of these products, or without revealing cases of fake rice, fake eggs, fake noodles, fake meats, fake coffee, and so on[xxxii], all faked with industrial chemicals. How can you protect yourself since you must eat to live? How to know if the fruit or vegetable you eat is not contaminated, if the meat you are enjoying is not tampered with, if the fish you buy is not packed with toxic metals, if the nước mắm you are consuming is not made from these intoxicated fish and if the salt that is used does not come from a polluted coastline? Vietnam has become a country with a high rate of cancer patients; the death toll from cancer, estimated by WHO in 2015 based on reports from Vietnamese hospitals, is 350 per day; there are 130,000 new cases every year, and these figures are expected to increase sharply after the Formosa disaster[xxxiii].

 

However, the government, complicit of the polluters, refuses to take sanitary measures. It rejects any request for analysis of the water. After the Formosa scandal, it even forbids doctors to examine the blood of the inhabitants of the Central provinces, for fear of exploitation by “enemy forces” (a term that refers to groups of opponents of the regime). The “genociders” of Beijing can rub their hands. The Southwest Vietnam and Central Vietnam are gradually being emptied of their population, driven by the misery to emigrate abroad on the incentive of the government. And most of these uneducated emigrants have no other resource than to join the lumpenproletariat of the host country which receives them badly and despises them. Ironically, following the example of Donald Trump, the Cambodian prime minister recently spelled out plans to build a wall on the Vietnamese border to prevent the paperless Vietnamese from entering Cambodia! Meanwhile, thousands if not millions of Chinese people have been settled in Vietnam, where the authorities have reserved the best places for them, wherein the Vietnamese who have been living there for generations have been expropriated for an insignificant indemnity, thus creating groups of “dân oan” (victims of injustice) that can be seen gathered around the capital or prefectures to claim a reparation that will never be made.

 

 

Military threats:

 

Unlike free countries that host foreign companies only with a view to procuring work for their citizens, the Vietnamese government suffers without objection that Chinese companies import all their personnel to the tens of thousands or even more, and refuse any control on the part of its administration. Also part of this behavior of servility/arrogance is a concern to conceal a much more worrying reality. The immense areas conceded to China for their factories that do not require as much, moreover located in the most strategic locations of the country, protected by barbed wire and prohibited to all Vietnamese, even to representatives of public authority, may house only military complexes whose staff consists of alleged factory employees. Arms of all sizes passed through the open border can be easily camouflaged, especially if tunnels are dug. Moreover, if we are to believe the rumor, the Chinese are in the process of (or have finished) constructing in secret two tunnels[xxxiv] large enough for the use of tanks and lorries, to connect the region of the Highlands and The Mekong Delta.

 

At present, in the event of an armed invasion, China can move regiments at any time through North Vietnam, whose border region and Tonkin Bay are already under its control; in the Center region it has bases on the Highlands as well as on the coast with the port of Vũng Áng where its submarines and large ships can enter. Farther away, the south will be reached by troops descended from the Center region, and also by aircraft from the recently built airports on the Paracel and Spratly Islands stolen from Vietnam. If current intrigues succeed, China will soon become the owner of several regional airports on the brink of bankrupcy, that it can transform into military airfields.

 

In order to complete the encirclement of Vietnam and to control all its supply lines by either land or sea, China has established a solid alliance with Laos and Cambodia; the latter has even leased to China a naval base for 90 years in the port of Sihanoukville from where Chinese can monitor the South Sea. In case of necessity, for example of American intervention, they deployed a row of ground-to-air missiles on the Paracel Islands. Where are these missiles pointed at, if not towards Vietnam, barely thirty kilometers away.

 

All these military preparations merely materialize China’s warlike ambition. This is an ambition China never concealed: on the website of the Chinese army sina.com, the authors of articles published on September 5th 2008 and then on December 20th 2014 explain how China can quickly conquer Vietnam! But, as good followers of Sun Tzu and lovers of the game of go, especially after the failed invasion of 1979, the Chinese prefer to use force only as a last resort after stifling the opponent. Thus, for decades China has patiently applied to its little neighbor the “strategy of the silkworm”, a small animal that is able to overcome a large pile of mulberry leaves by nibbling it bit by bit.

 

 

 

The Vietnamese population, caught between the Chinese hammer and the government anvil, prefers for the most part to live in denial or in fatalism. But the deniers of the Chinese threat can not dispute the omnipresence of the Chinese in the country; and since the leaks on the 1990 treaty, especially since the development of the “livestream” technique on Facebook that allows the direct exchange of information, they become aware of the imminent danger that the communist power wants to hide from them. For their part, the traitors of the State apparatus, who have been in the know for a long time, seek only to build up a substantial personal fortune through racketeering and corruption, and then to transfer this fortune abroad by means licit or illicit. Vietnam is in danger of bankruptcy with a current debt[xxxv] of $117 billion equivalent to 64% of GDP, that it cannot pay (on the deadline of July 2017, servicing the debt will amount to 24% of the national budget)[xxxvi], at a time that country’s coffers are empty (in many places, civil servants and employees of government companies haven’t been paid for months[xxxvii]). Meanwhile, it is estimated that more than $600 billions of money stolen from the Vietnamese people by the apparatchiks was deposited in the United States, and more than $200 billions in Swiss banks[xxxviii]. All these Communist felons continue to assuage the people with lies, to praise the sweetness of living in a Vietnam moving towards modernity; but they themselves take the precaution of sending their wives and children in advance to capitalist countries, preferably in the most “detested”, the United States. The “spoilsports” who oppose this travesty of justice, those who assist victims, the “democrats”, the citizens who are openly hostile to the Party or to China, are tolerated for a certain time in order to convince international opinion that they live in a free country. Then on a beautiful day or rather on a beautiful night (as is the custom in dictatorships) they are arrested, beaten, imprisoned, sometimes killed. A few days ago, the political police thus kidnapped the most notorious democrats, and detained them in places unknown, so as to discourage those who are tempted to participate in the general demonstration of March 5th 2017[xxxix]. In Saigon, those who had the courage to demonstrate were harshly repressed, and on this occasion they discovered that the most brutal police officers who beat them cruelly are in fact Chinese.

 

Apart from the minority of the watchdogs of the regime, the Vietnamese people refuse the idea of any Anschluss with China. But, betrayed by their own leaders who have become the “domestic enemy,” how can they oppose the powerful “foreign enemy” when the fateful hour comes? The only hope for Vietnam to remain independent is a general uprising large enough to overthrow the power of Hanoi and install in its place a democratic government that will take national interests to heart and establish military alliances with free countries. And that before a Chinese military deployment. Yet, submitted to the cruellest political regimes in existence for nearly half a century in the South of Vietnam and nearly a century in the North, the Vietnamese have lost their energy and confidence in themselves. To revolt, they must overcome the paralyzing fear of the wrath of the regime, a fear that is instilled in them from childhood.

 

Meanwhile, time is short and we cannot watch without reacting the slow death of a once proud and courageous people. You all men and women of good will, who love justice and freedom, I beseech you to look into the drama of Vietnam! Alert international public opinion to counter Beijing’s annexationist machinations! Especially those among you, who by your vociferations against the Vietnam War in the 1960s, helped push America to abandon the republic of South Vietnam to bring it into the hands of the sinister clique of assassins from Hanoi, take your responsibilities and redeem yourself by denouncing the Chinese political crimes as strongly you formerly denounced the US! Show the Vietnamese that they are actively supported, and by the warmth of your sympathy communicate to them the flame they lack to overcome their fear! Help them to take back their right to live free in a free country!

 

 

Paris, 2017-03-09, revised version 2017-04-19

Đặng Phương Nghi

Em: dpnghi@gmail.com

Translation from French by François-René Rideau

 

[i]                       Read the rare written mentions of these war crimes by the chinese army in: WT news, “NY Times viết gì về sự tàn bạo của TQ trong chiến tranh biên giới 1989”  (http://www.vtc.vn/quoc-te/new-york-times-viet-ve-su-bao-tan-cua-trung-quoc-trong-chien-tranh-bien) and Hùng Dũng, “Trung Quốc ra lệnh hễ gặp người VN nào là giết hết, in Người Việt Ukraina”, 2016-02-18  (http://nguoivietukraina.com/chien-tranh-bien-gioi-1979-tq-ra-lenh-gap-nguoi-vn-la-giet-het.nvu).

 

[ii]                      There exists a mystery about the article by Kerby Anderson Nguyên who gives these informations with excerpts from the documents because the blog “hoilatraloi” that first published them in June 2013 cannot be found anymore; but the article was immediately spread, and it can be read on several vietnamese sites that republished it in its entirety. One must be reminded that the Internet has become the platform for all kinds of manipulation and disinformation, and that an effort is required from the reader to analyze and sort the information to avoid being deceived. Having myself fallen for some hoax claiming to be Wikileaks revelations, that I cited in the first version of this text, I had, to appease my conscience, to consult every document available on the Internet regarding this infamous treaty. Taking into consideration the fact that any claim about a “secret” document are by definition unverifiable and therefore subject to caution, one may at the very least hypothesize that it is a cleverly disguised leak by some disgruntled high-level party official, because the tone and the style of the excerpts seem authentic. In any case, in 2014 the rumor about the annexation of Vietnam in 2020 grew to great proportions — especially after two corroborating excerpts were circulated in two Chinese newspapers, New China press and Global times, that only repeat a statement published after the 1990 conference in the Sichuan Daily (cf. part 1 of the series of articles by Huỳnh Tâm on the conference, published in his blog, where he cites the chinese original: http://huynh-tam.blogspot.fr/201410/ly-bang-tiet-lo-hoi-nghi-thanh-o-1990.html : Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: “Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!” (越南表示愿意接受作为中央政府在北京的一个自治区为中国的内蒙古,西藏,广西…中国方面同意接受并同意上述建议和越南为期30年的越南共产党解决必要加入中国民族的大家庭中的步骤!). The scandal was such that many voices arose to demand the publication of the treaty; but instead of the requested transparency, the Establishment merely let the party’s central Bureau of propaganda deny the treasonous act in a long explanation of the treaty that fails to convince anyone. Since then, many confirmations by high-level officials have leaked via Youtube, including for instance one certified by the daughter of a general  (https://www.youtube.com/watch?v=JpZai9CVl4I).

 

[iii]              Cf. the article by Đặng Chí Hùng, “Bằng chứng bán nước toàn diện của đảng cộng sản VN”, in the blog Sinicization of Indochina, that gives a copy of this agreement  (http://namviet.net/blog-hanhoa/?p=657#.WNaot7g8acM): Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” – số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/6/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao như sau: “Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau để giữ tình đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như sau:

            Điều 1: Chính phủ Trung Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.

            Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.

            Điều 3: Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên ban theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết (Phụ lục đính kèm).

            Điều 4: Trước đảng và chính phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực thi kể từ ngày hôm nay 12/06/1953.

            Điều 5: Chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh (Phụ lục đính kèm).

            …Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”

 

[iv]              Until there are on-site verifications backed by maps, the lost area can only be estimated with more or less reliability. Yet, from a simple subtraction of the official data on the total area of Vietnam published before and after 2000, a valid number can be extracted. Therefore, it is recognized by the geographers and scientists of the current Establishment that in 1943, forests used to cover 43% of the area of the country for a total of 14.3 million hectares, which corresponds to a total area of 33.26 million hectares or 332,600 km²; no official number is given for the current total surface area, but the study by Will de Jong, Dô Dinh San and Tran Van Hung, “Forest rehabilitation in Vietnam”, made in Hanoi in 2006, mentions the number of 331.210 km2 for the total surface area of the country, which implies a loss of 1,500 km²!

 

[v]              To get an idea on the issue with borders, read the article of 2013-11-06 by Trương Nhân Tuấn, “Việt Nam có mất đất mất biển qua hai hiệp định phân định biên giới”, in the blog “Những vấn đề Việt Nam” (http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/11/viet-nam-co-mat-at-mat-bien-qua-hai.html).

 

[vi]                     See part 4 of the series of articles by Huỳnh Tâm cited above.

 

[vii]             As a sign of this incorporation, in December 2009, the Vietnamese government modified the uniforms of the Vietnamese army. And they were found to be almost identical copies of those of the Chinese army, the only difference being a stripe on the hat of the Vietnamese uniform. If a Chinese invasion takes place, how will the people be able to distinguish friends and foes (assuming that the “Vietnamese People’s Army” remains a friend!). See the article by Nguyễn Văn Tuấn, “Liệu quân phục VN có made in China?” of 2011-07-18 in Vietinfo: http://m.vietinfo.eu/tu-lieu/lieu-quan-phuc-viet-nam-co-made-in-china.html.

 

[viii]            Historically and traditionally the Paracel and Spratly archipelagos are part of Vietnam. These unoccupied and wind-struck islands were ignored by all countries except the Vietnamese royal power, that even created a special sea patrol to watch them in the 18th century. At the start of the 20th century, the acknowledgement of their strategic position in controlling the sea traffic as well as their abundance of guano started to inspire covetousness from neighboring countries, particularly China; and this covetousness only grew with the discovery of large underwater deposits of oil and natural gas. In 1974, taking advantage of the USA retreating from the Vietnamese conflict, China seized by force the Paracel islands, then in 1988 it profited from its war with Vietnam to occupy, also by force, the Spratly. Chinese audacity was encouraged by a kind of concession from the power in Hanoi as attested in a letter to Zhou Enlai by prime minister Phạm Văn Đồng dated from 1958, in which Vietnam recognizes the sovereignty of China within a limit of territorial waters that includes the two archipelagos. This document, long hidden by Hanoi, was divulged by Beijing in 1980 in an anti-Vietnamese propaganda pamphlet during the border war; but fearing the reaction of the people that is very attached to these islands, the Vietnamese communist power feigned ignoring their existence then tried to minimize their significance! This explains why in May 2014, when the arrival of a Chinese drilling platform on the waters around these islands gave raise to large anti-Chinese demonstrations in Vietnam (see article: “Des tensions qui poussent le Vietnam à s’allier avec un vieil ennemi”, in Openmind, news, 2016-07-12 (https://www.opnminded.com/2014/11/07/nouveaux-lieux-paris-eko-monseigneur-club-phantom.html), a Vietnamese language broadcast by the Beijing television “Peuple’s Voice” dated 2014-05-18 responded with this statement: “… we admit that Paracel and Spratly and the coasts (?) belong to Vietnam, but the Vietnamese communists (represented) by prime minister Phạm Văn Đồng signed a diplomatic note on 1958-06-07. China possesses all the indisputable documents about the maritime region and China has the right to exploit Vietnamese oil and natural gas. The Vietnamese communists cannot do anything about it. You all, leaders in the political bureau of the Vietnamese communist party, we do not understand for what reason you do not proclaim to all your people that you have signed and recognized that the Paracel, Spratly and Vietnamese coasts (?) are under Chinese sovereignty and why you let the Foreign affairs Ministry and the Navy be mistaken and continue their aggression… We have enough forces ready to crush all the Vietnamese warships; with the might of China we will vanquish all of Vietnam in merely one hour. We will seize the Vietnamese coasts and we will take everything that Vietnam owes to pay the lesson, as in 1979. You, leaders of the political bureau of the Vietnamese communist party, you are the “gruel eaters who piss in the bowl”, you owe to China a debt of over 870 billions (of yuans or of dollars?) for the war of Điện Biên Phủ and the war against the United States. And now that you have handed over the islands and the sea to the People’s Republic of China, nothing justifies that you should not make it publicly known to the entire population and that you should keep opposing China; that is an impudent action by Vietnam, we denounce it categorically and we will teach Vietnam a lesson.” This is a precious document for it is the first time that we see China publicly declaring that the Paracels and Spratly belong (or at least used to belong) to Vietnam, whereas it always claimed based on dubious evidence that its sovereignty over these islands date back to ancient times. (https://www.youtube.com/watch?v=RCLlsvpRNhg)

 

[ix]                     Cf. Wikipedia (the French and not the English version) in the article: flag of People’s Republic of China. Young pioneers of China (Large detachment). On the other hand, the Fujian flag (yellow star on red and blue background) was chosen as emblem of the ephemeral “Liberation of South Vietnam movement” with a little difference in the intensity of the blue color.

 

[x]                      The publication of the translation of the book by Hồ Tuấn Hùng gave rise to many articles and critical commentaries. The most solid line of argument in my eyes is that of Trần Việt Bắc, “Hồ Chí Minh: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi” (http://www.geocities.ws/xoathantuong/tvb_hcmdongchi.htm).

 

[xi]              Cf. Interview of Vũ Minh Giang, vice-president of the association of historical sciences, in “Ghi nhận sự hy sinh của các liệt sĩ trong chiến tranh biên giới 1979”, in Báo mới, 2017-02-16 (http://www.baomoi.com/ghi-nhan-su-hy-sinh-cua-cac-liet-si-trong-chien-tranh-bien-gioi-1979/c/21554895.epi).

 

[xii]                    Cf. article in RFA of 2017-01-12, “Cưỡng chế tượng Trần Hưng Đạo tại tư gia là trái luật”: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/will-statue-inside-private-property-be-evicted-illegally-ha-01122017080011.html/ .

 

[xiii]            About the dams upstream of the Mekong, read:  Question Chine 2011-11-27  (http://www.questionchine.net/controverses-autour-des-barrages-chinois-sur-le-mekong); Samuel Bollendorf, “Le rapt du Mékong”, on his website http://www.samuel-bollendorff.com/fr/le-rapt-du-mekong/ ; for a more scientific view, the study by Michel Ho Ta Khanh, “Le Vietnam et les aménagements hydrauliques dans le bassin versant du Mékong” http://www.recherches-internationales.fr/RI98/RI98HoTaKhanh.pdf .

 

[xiv]                   About the consequences of the dams, read: Arnaud Vaulerin, “Delta du Mékong, le triangle des inquiétudes”, in (newspaper) Libération, 2016-02-07 (http://www.liberation.fr/planete/…/delta-du-mekong-le-triangle-des inquietudes_1431029); Arnaudet Lucie, Arnoux Marie, Derrien Allan, Schneider Maunoury Laure, “Conséquences environnementales, sociales et politiques des barrages, Etude du cas du Mékong”, ENS, Ceres-Erti, 2013 (http://www.environnement.ens.fr/IMG/Mekong.pdf).

 

[xv]             The tactics by Chinese businessmen are so cruel and so twisted that many people attribute them to malicious rumors. Unhappily they are all too true. One may read the recurring articles in Vietnamese newspapers, for instance the very official “An ninh thủ đô” (Security of the capital city) of 2015-06-18 (http://anninhthudo.vn/chinh-tri-xa-hoi/muon-van-thu-doan-ban-cua-thuong-lai-trung-quoc-nhieu-loan-thi-truong-viet-nam/616728.antd) and to look at video clips on the topic, for instance like this one: https://www.youtube.com/watch?v=Nlsf6BrniVg .

 

[xvi]                   About the deliberate introduction of these destructive stocks, see the article by Lê Thọ in the newpaper Thừa Thiên of 2016-07-06  (http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/dan-bo-lua-trong-sen-bai-hoc-oc-buou-vang-lap-lai-3328574/), and that by Ngọc Tài and Thành Nhân, “Bất thường một dự án trồng sen”, in Tuổi trẻ, 2017-02-04 (http://baodatviet.vn/kinh-te/thi-truong/dan-bo-lua-trong-sen-bai-hoc-oc-buou-vang-lap-lai-3328574/).

 

[xvii]                  Cf. one of the many articles on that topic in VT news of 2017-02-10: (http://www.vtc.vn/xa-hoi/phong-sinh-ca-chim-trang-xuong-song-hong-nhieu-co-quan-chuc-nang-vao-cuoc-d302781.htm).

 

[xviii]                 About deforestation in Vietnam a serious but slightly old study: Yann Roche and Rodolphe de Koninck, “Les enjeux de la déforestation au Vietnam”, in Vertigo, vol.3, n°1, 4/2002  (https://vertigo.revues.org/4113).

 

[xix]            The concession of forests to chinese timber companies was officially acknowledged in 2014, but started since at least 2010. Cf. public protestations in 2010 by two old generals, Đồng Sĩ Nguyên and Nguyễn Trọng Vĩnh against the decision of 10 provinces “allowing 10 foreign companies to rent over a long duration the land of primary forests so as to grow raw material forests on a total surface area of 305,533 ha of which 264,000 ha are attributed to Hong Kong, Taiwan and China, 87% of these forests being in the important border provinces… The provinces that sell their forests are suicidal and harm the rest of the country, as for the countries that buy our forests that destroy our country on purpose and sow heartlessly and ruthlessly a catastrophe for our people.”  (http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2010/02/100222_forestation_projects.shtml)

 

[xx]             Cf. Daniel Drollette Jr, “A plague of deforestation sweeps across SEA”, Yale environment 360, 2013-05-20 (http://e360.yale.edu/features/a_plague_of_deforestation_sweeps_across_southeast_asia); “Deforestation in Vietnam is condoned by authorities: official”, in Thanh niên news, 2015-04-11  (http://www.thanhniennews.com/society/deforestation-in-vietnam-is-condoned-by-).

 

[xxi]            The Vietnamese expression for the precious ancestral heritage is “rừng vàng biển bạc” = forest of gold and sea of silver. The forests has almost disappeared; as for the sea, it is half dead since the Formosa catastrophe.

 

[xxii]           Officially however, China is only the second investor in Vietnam. Cf. “Le courrier du Vietnam”, 2017-03-16 (http://lecourrier.vn/flux-dinvestissement-direct-chinois-au-vietnam/393651).

 

[xxiii]           Cf. Jean-Claude Pomonti, “Le Vietnam, la Chine et la bauxite”, in le monde diplomatique, 2009-07-03 (http://blog.mondediplo.net/2009-07-03-Le-Vietnam-la-Chine-et-la-bauxite).

 

[xxiv]                 The protests against these bauxite factories were the topic of a PhD thesis: Jason Morris, “The Vietnamese bauxite mining controversy: the emergency of a new oppositional politics”, University of California, Berkeley, 2013 (http://digitalassets.lib.berkeley.edu/etd/ucb/text/Morris_berkeley_0028E_14018.pdf).

 

[xxv]                  Already the pollution caused by these factories affects the health of the neighborhood inhabitants. Cf. the article by Tuệ Lâm, “Vỡ đường ống nhà máy bauxite…” republished by the site of Viet An group: http://www.vietan-enviro.com/vo-duong-ong-nha-may-bauxite-nguy-co-tham-hoa-moi-truong-giong-formosa-o-tay-nguyen/.

 

[xxvi]          Cf. “After many years Vietnam authority, investor, still struggle to justify bauxite plants”, in Thanh niên news, 2015-04-07  (http://www.thanhniennews.com/business/after-many-years-vietnam-authority-investor-still-struggle-to-justify-bauxite-plants-40660.html).

 

[xxvii]          Cf. Brian Hioe, “Continued protests in Vietnam against Formosa steel”, 2016-10-14, in New Bloom, 0ctobre 2016 (http://newbloommag.net/2016/10/14/formosa-steel-vientam-october/) .

 

[xxviii]         Cf. Prashanth Parameswaran, “Vietnam may crack down on dam investors”, in The diplomat, 2015-01-03 (http://thediplomat.com/2015/01/vietnam-may-crack-down-on-dam-investors/). The number of 7000 dams given by the author, that must also includes small dams by individuals, non officially registered, is far beyond what one obtains by adding the projects of hydroelectric units recognized by the national electricity company EVN: 888 units in 2016, 1586 in 2030 – Cf. Phạm Thu Hương, “Hố Hô và nghịch lý thủy điện nhỏ ở Viêt Nam”, in CVD, 2016-11-03  (https://cvdvn.net/2016/11/03/ho-ho-va-nghich-ly-thuy-dien-nho-o-viet-nam/).

 

[xxix]                 Cf. “Revival plan for massive steel plant tests Vietnam after Formosa disaster” in VNExpress, 2016-09-14  (http://e.vnexpress.net/news/news/revival-plan-for-massive-steel-plant-tests-vietnam-after-formosa).

,

[xxx]                  About the deliberate poisoning of Vietnam by thermal power stations, read: Lê Anh Hùng, Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân và hiểm họa mất nước, in Chân trời mới media (https://www.facebook.com/chantroimoimedia/posts/901893309854222).

 

[xxxi]          Cf. video clip on the pollution of the Hậu river, that will completely die after the paper factory starts production: https://www.youtube.com/watch?v=KRqrGDnWkc8 .

 

[xxxii]          Cf. ZS, “10 aliments en provenance de Chine remplis de plastique et cancérigènes”, in Alnas, 2015-11-02 (http://www.alnas.fr/actualite/alimentation-sante/article/sante-10-aliments-en-provenance-de); Alain Sousa, “Aliments chinois, faut-il en avoir peur ?”, 2008-12-05, in Doctissimo nutrition (http://www.alnas.fr/actualite/alimentation-sante/article/sante-10-aliments-en-provenance-de).

 

[xxxiii]         Cf. article in Saigoneer of 2016-04-07: “Vietnam could have most cancer cases worldwide by 2020…” (http://saigoneer.com/saigon-health/6714-vietnam-could-have-most-cancer-cases-worldw).

 

[xxxiv]         Cf. a video clip by Jenny Trân: https://www.youtube.com/watch?v=wk7W2hihZg8 .

 

[xxxv]         The official numbers are quite minimized. According to Vũ Quang Việt, a former head of statistics at UN, the actual public debt of Vietnam is as high as 431 billion USD, a number that includes both debt due by the State and by State-held companies (324 billion USD), which amounts to 210% of GNP; however, the State bank itself admits that the country’s foreign currency reserves only amount to 40 billion USD, and every year the national budget has a deficit of 5 to 6% of GNP. Cf. article by Lê Dung “STBN, Không phải 62% GDP mà nợ công VN đang là 210% GDP”, in Việt Nam thời báo, 2017-02-20 (http://www.ijavn.org/2017/02/vntb-khong-phai-62-gdp-ma-no-cong-viet.html).

 

[xxxvi]         Cf. article by Bích Diệp, “World bank sẽ chấm dứt…”, in Dân trí, 2016-03-22 (http://dantri.com.vn/kinh-doanh/world-bank-se-cham-dut-oda-uu-dai-voi-viet-nam-vao-nam-2017-20160322141524964.htm).

 

[xxxvii]        For instance as of 2017-03-19, the 3700 employees of the irrigation service of Hanoi still haven’t been paid since November 2016  (https://www.youtube.com/watch?v=xULH0b5ZfPg).

 

[xxxviii]       These numbers are likely considering the every time increasing sums of millions of USD each seized among mid-level corrupt officials that the authorities decide to prosecute, and most importantly they are in agreement with the revelations by Poliburos.net in 2000 and by the officer of a swiss bank in 2005 about the astronomical amounts deposited in foreign banks. (https://hon-viet.co.uk/NT_VietNamCoKhoang700DangVienCoTaiSanTu100Den300TrieuDoLa.htm). This evasion of money stolen from the people explains the drying up of the State’s currency reserves and the exhaustion of its resources.

 

[xxxix]         The call for a general demonstration was launched by Fr. Nguyễn Văn Lý, spokesman of a “Gathering of Citizens of the Nation” (Tập hợp quốc dân Việt) the other members of which want to remain anonymous. It is a call for a demonstration not momentaneous but continuous, every Sunday and every Holiday, until the number of demonstrators grows large enough to put pressure on the Establishment and change the deal. Up until now, this call is followed mostly in the Center region and the South, whereas the North isn’t very active.

GIẶC ĐÃ ĐẾN NHÀ, TOÀN DÂN VIỆT NAM CÒN ĐỢI GÌ MÀ KHÔNG VÙNG DẬY !

Đặng Phương Nghi

 

 

 

HỠI CON CHÁU LẠC HỒNG, HÃY MỞ MẮT RA ĐỂ THẤY ĐẤT NƯỚC ĐANG BỊ TÀN PHÁ BỞI GIẶC TÀU VỚI SỰ ĐỒNG LÕA CỦA MỘT BẦY CẦM QUYỀN BÁN NƯỚC.

CHẲNG CÒN BAO LÂU CHÚNG SẼ BIẾN VIỆT NAM THÀNH MỘT TỈNH CỦA TRUNG QUỐC, CÙNG CHUNG SỐ PHẬN HẨM HIU CỦA TÂY TẠNG VÀ TÂN CƯƠNG,

VÀ DÂN TA SẼ BỊ ĐẨY VÀO CẢNH NÔ LỆ, TRÊN ĐƯỜNG DIỆT VONG.

 

Chúng ta không còn thời gian nữa đâu, mỗi phút trần trừ là quân thù tiến thêm một bước trong sự khống trị chúng ta. Không tin ư ? Xin bạn hãy chịu khó đọc tiếp : Dưới đây là những điều đã được tiết lộ, có thể kiểm chứng qua các tài liệu trên Mạng ; còn nhiều nhiều nữa tôi không kể ra xiết vì sợ rườm rà hoặc chưa thâu được bằng cứ rõ rệt, nhưng thế cũng đủ để chứng minh âm mưu diệt chủng dân ta để quân Tàu thôn tính nước ta của bè lũ Trung cộng và Hán nô Việt cộng.

Đông dân Việt Nam ở quốc nội bị nhà nước cộng sản bưng bít và tuyên truyền láo phét về mọi mặt, chính trị, kinh tế, xã hội, vv., nhận thấy đời sống của mình ngày càng kiệt quệ, siêu cao thuế nặng, quan chức lộng hành, tai ương bệnh hoạn triền miên, dân Tàu nhan nhản vênh vang khắp mọi nơi đấy, nhưng chỉ biết than trời trách phận mà không tìm hiểu duyên cớ tại sao ra nông nỗi. Nguyên do chính là nhà cầm quyền cộng sản đã bán nước từ lâu cho Tàu cộng.

 

HỒ CHÍ MINH VÀ HIỆP ƯỚC THÀNH ĐÔ

Giờ thì đã nhiều chứng cứ được đưa ra để khẳng định rằng Hồ Chí Minh, kẻ được nhà nước XHCN vinh danh là cha già dân tộc (làm như trước hắn không có dân Việt !) thực ra chỉ là một tên thiếu tá Tàu cộng, tên thật là Hồ Tập Chương, bí danh Hồ Quang, do Cộng sản quốc tế huấn luyện để nắm đầu nhóm cộng sản Việt Nam vào năm 1939 dưới lốt Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái Quốc mất tại nhà tù Hồng Kông năm 1932[i]. Nhưng dù là Tàu hay Việt, Hồ Chí Minh cũng trước hết là một kẻ man trá. Vì ngay cái tên Nguyễn Ái Quốc[ii] mà hắn dùng để được coi là một nhà yêu nước văn hay chữ tốt cũng là một cái tên ăn cắp ; bởi chính ra Nguyễn Ái Quốc là bút hiệu chung của ba nhà cách mạng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền như Hồ Hữu Tường kể lại trong hồi ký « 40 năm làm báo » ; vì Nguyễn Tất Thành nhờ quen biết Phan Châu Trinh hay lai vãng tới chỗ các ông tụ họp, các ông đã đề nghị cho anh chàng ít học này đội cái tên Nguyễn Ái Quốc, để lừa sự theo dõi của mật thám Pháp đối với các ông ; do thời cơ đó Nguyễn Tất Thành nhận vơ luôn là nhà cách mạng tăm tiếng đã được mời đến hội nghị Tours (nơi Thành, NAQ giả, đọc bản diễn thuyết do NAQ thật viết), tác giả của những áng văn chương hùng hồn chống thực dân, như « Bản án chế độ thực dân », tuy bản văn này rõ ràng là do Nguyễn Thế Truyền viết như ghi trên bản in đầu của tập sách.

Năm 1948, thấy thủ đoạn cướp chính quyền và tuyên bố độc lập xạo[iii]của mình không đủ để cộng sản giật hẳn chính quyền khỏi tay Bảo Đại, Hồ Chí Minh đã quyết dùng vũ lực để lật đổ chế độ quốc gia dưới mỹ từ đánh đuổi thực dân, trong khi Pháp đã hết là thực dân và Việt Nam đang có một chính phủ tự do. Để thực hiện tham vọng này, Hồ Chí Minh đã không ngần ngại hứa biến Việt Nam thành một phần của Trung Quốc để đổi lấy sự hỗ trợ quân sự của Mao Trạch Đông (nếu Hồ tặc là người Tàu thì đó chỉ là việc thi hành lệnh của Mao). Bằng chứng là giao ước ký giữa Hồ và Mao ngày 12/6/1953 tại Quảng Tây[iv].

Cho nên, không lấy gì làm lạ khi vào năm 1990, sau chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979-1989)[v], trước sự tan vỡ của các chính thể cộng sản đông Âu, đám chóp bu Hà Nội tham quyền cố vị rủ nhau sang Trung Quốc khấu đầu xin phục tùng đàn anh và nguyện theo gương « Bác » dâng đất nước cho kẻ thù truyền kiếp thông qua mật ước Thành Đô. Đã là mật ước, văn kiện này không hề được công bố, nhưng với thời gian, sự thực thi những điều khoản « lạ lùng » trong đó, cộng với những sự hé lộ từ trong nội bộ đồn ra từ khoảng 2010, sự thật về hành động bán nước vô tiền khoáng hậu của lũ tặc quyền đã được phơi bầy ra ánh sáng. Tháng 4 năm 2013, thiếu tướng Hà Thanh Châu, chính ủy tổng cục công nghiệp quốc phòng, nhân dịp sang Mỹ thăm con du học bên ấy, xin tị nan chính trị và trao cho tạp chí The Foreign magazine một tập tài liệu bí mật của Tổng cục 2, theo đó mật ước Thành Đô chỉ là văn kiện chính thức cụ thể hóa những lời cam kết của Hồ Chí Minh với Trung cộng từ ngay 1926, được chấp nhận bởi nhà cầm quyền Việt Nam khi xin cầu hòa với Bắc Kinh vào tháng 8/1987. Chính Nguyễn Văn Linh đã đề nghị với Đặng Tiểu Bình năm 1987 tại Trùng Khánh rồi năm 1990 tại Thành Đô một chương trình « « sáp nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc », qua chiến thuật « hòa bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không có ai có quyền biết đến » ». Và Đặng Tiểu Bình rồi Giang trạch Dân đã cho Việt Nam một thời hạn chuyển tiếp là 60 năm, phân làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm, kể từ năm 2000 :

2000 – 2020 : Việt Nam là một tỉnh tự trị

2020 – 2040 : Việt Nam là một tỉnh thuộc trị

2040 – 2060 : Việt Nam đổi tên là Âu Lạc và thành một tỉnh lỵ dưới sự quản trị của tổng đốc Quảng Châu.[vi]

Trên thực tế, kết quả của mật ước Thành Đô là một tiến trình sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc được thực thi như sau :

 

SỰ LỆ THUỘC VỀ CHÍNH TRỊ

  • Dựa trên những cam kết của tặc quyền Hà Nội, Bắc Kinh đã sau đó cho in bản đồ Trung Quốc với Việt Nam thuộc vào đất của họ để giảng dạy cho học sinh nước họ rằng Việt Nam là đất Trung Hoa, rồi mỗi khi sinh chuyện với Việt Nam là họ chửi Việt Nam là « đứa con hoang phản bội ». Phía nhà cầm quyền Việt Nam thái độ trước sau vẫn là sự im lặng nhục nhã
  • Năm 1992, Việt Nam sửa đổi Hiến pháp ban năm 1980 để xóa bỏ những điều có ý chống Trung Quốc xâm lược.
  • Để tỏ lòng « hữu nghị », Việt Nam từ đây phải tránh nhắc tới chiến tranh biên giới với Trung Quốc. Hèn hạ hơn, Hà Nội chịu đục chữ liên quan đến chiến tranh trên mộ của của các tử sĩ Việt Nam trong khi ngược lại để mặc cho Trung Quốc xây nghĩa địa khang trang trên đất ta cho binh lính tử trận của chúng, cũng như không phản kháng khi chúng ủi mồ của binh sĩ Việt Nam trên phần đất cắt cho chúng. Ngoài ra, trong khi Trung Quốc không ngưng kể công và đòi nợ về sự hỗ trợ của chúng trong hai cuộc chiến gọi là chống thực dân và đế quốc (trái với Mý giúp đỡ không Việt Nam Cộng Hòa), Việt Nam không bao giờ dám đòi Trung Quốc bồi thường cho những thiệt hại chúng gây ra trong cuộc chiến biên giới. Thêm vào Việt Nam phải tiếp nhận trở lại những người Hoa ra đi khỏi Việt Nam thời chiến tranh Việt Trung.
  • Năm 1999, Việt Nam ký kết với Trung Quốc một hiệp ước về biên giới đất liền, theo đó Việt Nam nhượng cho Trung Quốc khoảng 900 km2[vii], trong số đó có nửa đẹp nhất của thác Bản Giốc và Ải Nam Quan là hai địa điểm lịch sử của nước nhà.
  • Năm 2000, hiệp định phân định Vịnh Bắc Việt nhượng cho Trung Quốc bãi Tục Lãm và từ 11000 đến 16000 km2 lãnh hải (tùy theo ước lượng của của các tác giả) ; Việt Nam chỉ còn 53% biển trong vịnh so với 62% trước đây. Thêm vào, Trung Quốc đòi Việt Nam để cho Trung Quốc khai thác chung ngư nghiệp tới 30% lãnh hải khiến cho Trung Quốc thực sự chiếm 2/3 vịnh[viii].
  • Về Hoàng Sa Và trường Sa, các đảo này đã bị nhà nước cộng sản gián tiếp nhượng cho Trung cộng từ 1958 qua công hàm nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên vùng biển trong giới hạn 12 hải lý, tức giới hạn trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Cộng sản Việt Nam cãi chì cãi chầy rằng công hàm đó không hề đả động đến hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, thế thì tại sao ít lâu sau Hà Nội cho in một bản đồ Việt Nam với hai quần đảo này dưới tên Tàu của chúng là Tây Sa và Nam Sa ?[ix] Thêm vào, tại sao Hà Nội cấm dân Việt Nam biểu tình đòi Trung Quốc trả lại Trường Sa – Hoàng Sa, đàn áp và bỏ tù những ai không tuân lệnh ?
  • Chính quyền cộng sản Hà Nội vin vào một lối giải thích gượng gạo công ước quốc tế để biện hộ cho sự đánh mất lãnh thổ và lãnh hải ở biên giới, nhưng làm sao bào chữa cho sự dâng cắt dần dà hàng chục ngàn km2 đất rừng, đất dọc biển, đất nội địa, toàn những đất quý giá giàu tài nguyên cho Trung cộng, dưới hình thức nhượng địa tới 70 năm cho công ty của họ khai thác, và lại nữa để họ khai thác bằng cách phá hoại vô tội vạ ?
  • Năm 2013, Việt Nam ký 10 văn kiện « hợp tác » chính thức cho phép Trung Quốc can thiệp vào việc nước của Việt Nam, trong mọi lĩnh vực ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, xã hội, vv. Trung cộng có thể từ đây cài một cách công khai (không cần giấu giếm) cán bộ của mình, được dân gọi là « tình báo Hoa Nam » trong bộ máy công quyền Việt Nam, ở mọi cấp bậc tới tận chức chủ tịch nhà nước (chẳng hạn như Trần Đại Quang, Hoàng Trung Hải, Tô Lâm). Kể từ đại hội nghị thứ 8 (1996) đaị hội nghị nào của Đảng cũng đều chịu sự giám sát của phái đoàn Cộng sản Trung Quốc, và vì đó là thời cất nhắc các quan chức, Trung cộng có thể trực tiếp canh chừng cho chỉ những người thân Trung Quốc được bổ nhiệm. Nhờ có tai mắt khắp nơi Trung cộng có thể cho thanh trừng hay sát hại những người máu mặt có tâm chống đối chúng, ví như vụ trung tướng tổng tham mưu trưởng Đào Trọng Lịch, và trung tướng tư lệnh quân khu 2 (là quân khu rất quan trọng cho sự phòng thủ biên giới phía bắc) Trần Tất Thanh cùng 18 sĩ quan trung cao cấp khác, từng là anh hùng thời chiến tranh biên giới Việt-Trung bỗng tử nạn trong một chuyến bay ở Lào tháng 5/1998, hay vụ thiếu tướng Lê Xuân Duy, cũng tư lệnh quân khu 2 và nghịch Trung bỗng đột ngột tử vong sau ba tháng nhậm chức vào tháng 7/2016.

Chính để thi hành quyết định « tăng cường định hương đứng đắn báo chí và dư luận » ghi trong thỏa ước hợp tác đó, mà Trương Tấn Sang đã lập ra đội « dư luận viên » tráo trở có công tác làm chó săn cho đảng.

  • Trên nguyên tắc dân Việt Nam và Trung Quốc có thể đi lại đễ dàng qua nước nọ nước kia, nhưng trong thực tế đó là một sự ưu đãi đơn phương. Dân Việt sang Trung Quốc vẫn phải chìa hộ chiếu, nhưng dần dà người Hoa tha hồ qua cửa khẩu không bị xét ; mới đây qua những chuyến bay và chuyến tàu đi thẳng từ Trung Quốc đến hải cảng và phi cảng địa phương nhượng cho Trung cộng, người Hoa ra vào Việt Nam thoát hẳn mặt cơ quan công quyền Việt Nam. Vì cả nể hay do một thỏa thuận ngầm giữa hai Đảng, người Hoa có thể cư trú công khai tại Việt Nam mà chẳng ai dám hỏi giấy. Đã thế chúng chỉ cần chấm chỗ nào là quan chức ký giấy trục xuất cư dân bản xứ đổi lấy một số tiền bồi thường rẻ rề rồi giao đất cho quan thầy chỗ đó, gây ra không biết bao là « dân oan » mất nhà mất cửa mất phương tiện sinh kế.
  • Người Hoa sống ở Việt Nam được tặc quyền cho hưởng một quy chế kẻ cả. Chúng có quyền lập khu riêng biệt lớn ngang thị xã, không cho người Việt vào, trong đó chỉ tiếng Tàu và tiền Tàu được sử dụng, ví như tại Bình Dương.
  • Tháng giêng 2017 Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc ký thêm 15 văn kiện xiết chặt hơn sự « hợp tác » một chiều (vì chỉ Trung Quốc có quyền can thiệp vào Việt Nam nhưng Việt Nam không những không có quyền nhòm vào việc của Trung Quốc, còn ngược lại phải tuân thủ mọi yêu cầu của Bắc Kinh), về thương mại kinh tế, văn hóa chính trị, đặc biệt về đào tạo cán bộ cao cấp và an ninh quân sự, với mục đích hợp nhất hai đảng và hai quân đội.
  • Tâm địa Hán nô của bè lũ chóp bu Việt cộng thể hiện qua sự sử dụng một lá cờ Trung cộng 6 sao thay vì lá cờ chính thức 5 sao (1 sao lớn với 4 sao nhỏ vây quanh). Theo Mao Trạch Đông 4 sao nhỏ biểu thị 4 giai cấp sĩ nông công thương cùng một chí hướng cộng sản, nhưng theo lối giải thích thông thường của người Hoa dựa trên một truyền thuyết có từ thời Tôn Dật Tiên thì 4 sao nhỏ đó tượng trưng cho 4 tộc lớn ở biên thùy do trung Quốc chinh phục : Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng. Như vậy ngôi sao nhỏ do Đảng vẽ thêm có ý biểu hiệu cho Việt Nam, tộc và tỉnh tự trị thứ 5 của Trung Quốc. Lá cờ 6 sao này xuất hiện lần đầu tiên trên đài truyền hình VTV đằng sau một nữ nhân viên, sau đó được mọi người thấy trong tay các em học sinh đứng đường chào đón phó chủ tịch Tập Cận Bình viếng thăm Việt Nam năm 2012. Trước sự phản đối của báo chí, nhà chức trách đổ tội cho lỗi lầm của xưởng in cờ ! Thế nhưng năm 2015 lá cờ 6 sao đó lại được treo trong một cuộc họp giữa cán bộ Việt-Trung, và mới đây dân biểu tình bị công an bắt thấy nó trình ình ở trong đồn cảnh sát. Khi Việt Nam chính thức thành tỉnh của Trung Quốc sẽ chỉ có lá cờ 6 sao đó được treo, thay thế cho lá cờ đỏ sao vàng, chính ra cũng chỉ là một ngọn cờ Trung cộng. Các tín đồ cộng sản Việt Nam nào có biết rằng họ đã bị Hồ Chí Minh chơi trò xỏ lá khi bắt họ nhận hiệu kỳ của Đoàn thanh niên tiên phong cộng sản Trung Hoa[x](chứ không phải cờ của tỉnh Phúc Kiến, là lá cờ cũng do cộng sản chọn nhưng cho Mặt trận giải phóng miền Nam VN !) làm quốc kỳ !

 

SỰ LỆ THUỘC VỀ VĂN HÓA

Với tinh thần bành trướng của chúng, Trung Quốc không thể không muốn áp đặt văn hóa là cái đích đi đôi với sự chi phối chính trị. Chúng ta đã thấy nó hiện ra trong lá cờ chúng khiến tặc quyền chọn làm quốc kỳ hiện tại (cờ đỏ sao vàng) và tương lai (cờ đỏ sáu sau). Quên rằng chúng vẫn phải đối địch với những nước được thành lập bởi người cùng chủng tộc với chúng như Tân Gia Ba (Singapore) hay Đài Loan, chúng quan niệm Việt Nam sẽ hết là mối nguy nếu dân Việt bị Hán hóa. Cho nên chúng yêu sách tặc quyền Hà Nội ban ra một số nghị quyết :

  • Cổ súy tình hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam và lấy lẽ đó để xóa bỏ vết tích của cuộc chiến năm 1979-89 : thu hồi các sách báo nói về cuộc chiến ấy, sách giáo khoa không được dành quá 11 giòng cho nó, cấm tuyệt dân chúng tưởng niệm chiến sĩ bỏ mình trong thời gian đó. Kết quả mong muốn là thế hệ trẻ phần lớn không nghĩ rằng nó đã từng xảy ra.
  • Cấm chỉ đích danh Trung Quốc mỗi khi Trung Quốc có hành động gây hấn, khinh mạn, trái luật, mà phải dùng những từ vu vơ kiểu như « ngư dân bị tàu lạ bắn ».
  • Tránh vinh danh những anh hùng lịch sử có công đánh đuổi giặc Tàu. Nếu không sợ dân phẫn uất lũ Hán nô đã cho dẹp bỏ tượng đài của những nhân vật ấy rồi ; hiện tặc quyền chỉ dám đụng tới tượng thờ tại gia của những vị đó : bằng chứng chuyện xảy ra cho một bức tượng Trần Hưng Đạo ở Lâm Đồng[xi]. Trong bối cảnh này dễ hiểu tại sao một tên tặc khuyển như sư hổ mang Thích Chân Quang, kẻ đã có ác tâm thả hàng tấn cá chim trắng vào sông Hồng, dám tuyên bố trước công chúng rằng Lý Thường Kiệt mang quân sang đánh Trung Quốc là « hỗn ».
  • Thi hành những biện pháp truyền bá tiếng Hoa tại Việt Nam : Cho dịch sách báo Trung Quốc, nhất là sách ca ngợi các nhà lãnh đạo Trung cộng. Lồng chương trình của đài truyền hình Trung Quốc vào chương trình của đài truyền hình Việt Nam. Phổ biến phim và nhạc Tàu. Phát sóng những kênh nói toàn tiếng Hoa. Đưa dần tiếng Hoa vào chương trình giáo khoa. Cho phép mở Viện Khổng Tử tại các thành phố lớn của Việt Nam.

 

SỰ LỆ THUỘC VỀ THƯƠNG MẠI  

Sự hàng phục về chính trị luôn luôn lôi kéo sự áp đảo về kinh tế thương mại. Ngay sau hiệp định về biên giới đường bộ, ngày 7/11/1991 nhà cầm quyền Việt Nam ký với Trung Quốc một hiệp định về thương mại theo đó hai nước trao đổi hàng hóa không hạn chế, với đặc quyền tối ưu đãi. Từ đó không cuộc gặp gỡ nào giữa lãnh đạo hai bên mà không kết thúc bằng một thỏa ước hay điều khoản về thương mại và kinh tế. Các thỏa ước, trên nguyên tắc dựa trên sự bình đẳng vì là trao đổi tự do, thực ra hết sức bất bình đẳng vì hai đối tượng quá chênh lệch về tầm phát triển, khả năng sản xuất và tiền tệ ; đấy là không kể tinh thần nô dịch của các quan chức Việt Nam khiến mỗi yêu cầu của Bắc Kinh biến thành mệnh lệnh, thành thử mỗi chỉ tiêu tăng gia thương mại do Trung Quốc đề xuất được hiểu là Việt Nam phải ưu tiên mua bán và ký hợp đồng với Trung cộng nhiều hơn nữa không cần biết loại hàng hóa và loại doanh nghiệp nhập vào nước có thích hợp hay không. Kết quả là :

  • Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập Việt Nam, giết dần giết mòn công nghệ Việt Nam do giá rẻ mạt của hàng Trung Quốc tương tự. Vì hàng Việt Nam xuất khẩu chẳng có bao nhiêu (hàng Trung Quốc mua phần lớn là vài nông phẩm như gạo, sắn, cao su, khoáng chất và nhiên liệu (than, dầu khí), trong khi  thượng vàng hạ cám hàng hóa Trung Quốc (chủ yếu, tới 75%, là hàng công nghệ, thành phẩm, vật tư) đổ vào Việt Nam ; bởi phần lớn hàng Việt Nam bán cho Trung Quốc là nguyên liệu thô, sản xuất cực nhọc lại giá cả kém cỏi, trong khi hàng mua của Trung Quốc là thành phẩm giá cao, cán cân kim ngạch thương mại thiên hẳn về phía Trung Quốc[xii]. Ví như Việt Nam bán 70% sản lượng cao su của mình cho Trung Quốc nhưng lại nhập từ Trung Quốc sản phẩm chế từ cao su trị giá ba lần số cao su bán[xiii].
  • Nhờ vào áp lực chính trị và điều kiện tín dụng dễ dàng, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam kể từ 2003. Thay vì đa dạng hóa thị trường để tránh lệ thuộc vào Trung Quốc, Việt Nam chỉ lo đạt chỉ tiêu mậu dịch của Bắc Kinh, đến độ về nhập khẩu không đi hỏi nước khác mà lại đặt mua những thiết bị lạc hậu của Tàu mang về trang bị nhà máy nước mình, gây ra thiệt hại nặng nề cho năng suất cũng như môi trường ; về xuất khẩu thì bất kể lượng tiêu dùng trong nước, trưng thu gạo của nông dân với giá bóc lột (3000 đ/cân) để bán cho Trung Quốc khiến dân thiếu gạo phải đi mua gạo (có khi là gạo giả) nhập từ Trung Quốc với giá gấp ba. Cái lối quản trị thương mại quái đản này xảy ra trong nhiều ngành khác : nhà nước bán hết than Quảng Ninh cho Trung Quốc để rồi không có than dùng[xiv] trong nhà máy nhiệt điện Việt Nam, phải đi mua than của Úc, Nga và Nam Dương (Indonesia) và cả của Trung Quốc với giá cao hơn nhiều[xv]. Cái độc của việc Trung Quốc mua gạo và than của Việt Nam nằm ở sự thực ra Trung Quốc không thiếu gạo cũng như không thiếu than mà còn là nước xuất khẩu hai hàng đó, nhưng chúng dùng áp lực chính trị và tiền nợ để ép Việt Nam bán những sản phẩm cần thiết của mình cho chúng với giá ưu đãi để rồi Việt Nam phải đi mua lại với giá cao hơn cũng loại sản phẩm ấy ngõ hầu đáp ứng nhu cầu của chính mình.
  • Lạ lùng nhưng không hiểu tại sao (ngay báo của đảng cũng lấy làm lạ[xvi])Việt nam là một nước nông nghiệp lại bỗng dưng nhập khẩu rau quả củ của Tàu đầy hóa chất, đôi khi còn là của giả. Nông sản của Việt Nam đâu mất rồi ? Như kiểu gạo, đã bị cơ quan nhà nước trưng thu bán đi để có tiền trả nợ công hay đã do thương lái Tàu mua lậu mua sỉ hết ?
  • Hiện thời, trên nguyên tắc[xvii], hàng Trung Quốc phải chịu thuế suất, thuế nhập khẩu, ấy vậy đã ngập thị trường rồi, sang năm 2018, theo quyết định của ASEAN những thuế đó sẽ bị bãi bỏ, liệu sẽ còn hàng Việt Nam để cạnh tranh với chúng không ?

 

SỰ PHÁ HOẠI KINH TẾ

Việt Nam là một nước nhỏ bé song le được Trời phú cho rất nhiều tài nguyên : rừng vàng, biển bạc, châu thổ phì nhiêu, mỏ quặng phong phú, lại thêm dầu khí ; vì thế cho nên bị tên láng giềng khổng lồ không ngưng nuôi mộng chiếm cứ, xâm lược mấy lần mà vẫn không trôi. Cuối cùng, thời cơ đã đến với Trung quốc nhờ vào một đám cuồng đảng vô liêm sỉ tự nguyện làm tay sai cho quan thầy Tàu ; lần này, học được kinh nghiệm ngàn năm và đặc biệt kinh nghiệm của cuộc chiến biên giới, Trung cộng thấy trước khi dùng đến vũ lực, cần phải hủy hoại kinh tế và môi trường Việt Nam để làm cho dân Việt Nam chẳng chết thì cũng suy nhược mất sức phấn đấu chống lại sự Hoa hóa đất nước. Một khi kinh tế Việt Nam bị lũng đoạn, đương nhiên kinh tế Việt Nam trực thuộc Trung Quốc theo như chủ trương « thực hiện nhất thể hóa kinh tế Việt-Trung…làm cho Việt Nam nhập vào vành đai kinh tế Trung Quốc, … ràng buộc hai nước lại với nhau, Việt Nam muốn phản bội cũng không có thể »[xviii].

Nông nghiệp :

Tuy ngày nay nông nghiệp chỉ chiếm 18% GDP, đại đa số dân Việt (70%) còn là nông dân, nên muốn hủy diệt dân Việt không gì bằng phá hoại ngành nông của Việt Nam. Mặc dầu đồng ruộng phân mảnh, phương tiện tân tiến không mấy được dùng, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể : nước xuất cảng thứ nhất trên thế giới về hạt điều và hồ tiêu, thứ hai về gạo và cà-phê, nước sản xuất thứ 5 về cao-su và thứ 6 về trà ; nhưng vì nông sản xuất khẩu là hàng thô, ít chất lượng cao, giá cả kém, nên nhiều triệu tấn hàng chỉ mang lại có 32 tỷ USD (so với con số 15.000 tỷ USD nông sản trao đổi trên thế giới) năm 2015, có lẽ là năm thịnh cuối cùng của ngành nông Việt Nam. Lý do là từ 2010, nó bị Trung Quốc phá rối qua nhiều phương cách :

  • Trung Quốc cho xây đập thủy điện trên thượng lưu sông Hồng và sông Mê Kông ở Vân Nam để giữ độc quyền nước sông đồng thời kiềm chế lưu lượng của sông và ức chế kinh tế và an ninh lương thực của Việt Nam (1/3 nông sản được sản xuất ngoài Bắc và 2/3 trong Nam). Sông Hồng chỉ chảy qua Việt Nam nên Trung cộng không gặp phản đối nào ; ngược lại Việt cộng còn bắt chước đàn anh, cũng xây đập trên sông Hồng (đập Hòa Bình và nhiều dụ án đập khác). Nhưng đánh đổi với điện của đập là hiện tượng giảm trầm tích, lở bờ, xâm mặn, lũ lụt và hạn hán, thiếu nước ngọt, .vv. Những hiện tượng này rất trầm trọng ở châu thổ Cửu Long vì Trung Cộng xây đến cả chục đập trên thượng lưu sông, trong đó có hai công trình khổng lồ là đập Tiểu Loan (dung lượng 15 tỷ m3- 2010) và đập Nọa Trát Độ (dung lượng 23 tỷ m3 – 2012). Vì ở hạ lưu, sông Mê Kông còn chảy qua Miến Điện, Thái Lan, và đặc biệt Lào, Căm Bốt, các quốc gia này đã cùng Việt Nam lập ra một « Ủy hội sông Mê Kông » để bàn về sự quản lý dòng sông hay đúng hơn để thương lượng với Trung Quốc. Song, với tinh thần bá chủ sắc xược Trung cộng không thèm tham gia Ủy hội và bất chấp các lời cảnh cáo từ các tổ chức quốc tế về những nguy hại cho sinh thái của động vật và sinh kế của người dân, chúng vẫn cho các đập của chúng hoạt động, không chấp nhận thông báo gì cho các quốc gia liên can, muốn tháo nước lúc nào thì tháo, cho dù ở hạ lưu đang có hạn hán hay mưa lụt. Không lay chuyển được Trung cộng, các nước kia bèn hùa theo Tàu cũng xây đập. Đặc biệt Lào do thế lợi thiên nhiên, có dự án xây nhiều đập lớn với ước mộng trở thành kẻ cung cấp điện cho toàn vùng. Việt Nam,ở đồng bằng không thể xây đập trên sông Mê Kông, đành chịu trận, để nhòm một nửa miền Tây trước kia trù phú, ruộng nương thẳng cánh cò bay, nay ngập lũ triền miên, mai khô héo lở nứt, dân cư điêu đứng không làm ăn được, phải di tản đi nơi khác, một số ra tận nước ngoài làm mọi cho người.
  • Đối với những nông dân còn lại, Trung cộng để cho thương lái[xix] Tàu nghĩ ra trăm ngàn quỷ kế để đưa họ vào chỗ sa sút, thường bằng cách đẩy giá thật cao bất cứ hàng gì, rồi sau một hai vụ, rút lui làm hàng sập giá. Bọn thương lái đi khắp nơi và hỏi mua những món hàng lạ như móng trâu, móng bò, lá khoai, lá điều khô, rễ sắn, rễ tiêu, vv. ; dân quê thường nghèo đói, dốt nát và ham lợi, thấy bán được hàng tầm phào với giá cao là đổ sô vào cuộc, không ngại mổ bò giết trâu (có khi còn đi chặt trộm chân của bò trâu hàng xóm) để rồi trong vùng không còn phương tiện kéo cầy, bứt lá đào rễ để mất cây mất giống. Chúng còn muốn tận diệt những thực vật quý hiếm của Việt Nam và tiếp tục phá rừng bằng cách đặt mua với giá cao lá chua ke, thân cây cu li, gỗ cây sưa, cây kim cương, cây máu chó vv., chỉ có ở rừng.[xx] Chúng dạy dân độn hàng, làm giả để kiếm thêm lợi. Chúng nhử dân nuôi gián, đỉa, ốc bươu vàng vv., là những động vật tăng sinh có hại cho sinh thái và mùa màng. Dân quê bỏ ruộng vườn chạy theo lợi ảo khiến nông sản giảm sút. Tác động của bọn thương lái gây rối loạn trong thị trường, tổn hại đến kinh tế Việt Nam, nhưng điều lạ hơn là nhà chức trách khoanh tay để cho chúng hoành hành, không điều tra ngành ngọn. Hành vi của chúng có tính quá quy mô và dai dẳng nên không thể bảo chúng chỉ là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, mà phải hiểu rằng chúng đang áp dụng một âm mưu thâm độc của Bắc Kinh[xxi].

Lâm nghiệp – phá rừng :

Tổ tiên ta đã để lại cho chúng ta một đất nước với rừng vàng biển bạc. Nhưng chỉ trong 40 năm cái gia tài quý báu ngàn năm của chúng ta đã bị giặc Tàu phá tan với sự đồng lõa của bè lũ tặc quyền Hà Nội. Năm 1943, 43% diện tích Việt Nam (tức 139.905 km2 vì VN thời đó có 325.360 km2, theo con số của tác giả dẫn ở dưới) được rừng che phủ. Trong 30 năm từ 1943 đến 1973, suốt hai cuộc nội chiến mang danh là chống Pháp và Mỹ với bom đạn triền miên chỉ có 22.000 km2 rừng bị hủy hoại[xxii], tức chưa tới 16% rừng chứ không phải 60% như đảng rêu rao, và như vậy sau chiến tranh Việt Nam còn khoảng 118.000 km2 rừng ; nhưng 17 năm sau (1990), trong thời bình, số rừng còn lại chỉ là 91.750 km2, nghĩa là 26.520 km2 bị hủy hoại, nhiều hơn thời chiến tranh. Do đó một chương trình trồng lại rừng đã được phát huy, nhưng độ phá rừng vẫn mạnh với năm tháng, hủy hoại những cánh rừng mưa nguyên sinh quý báu, nuôi dưỡng hơn ngàn sinh vật khác nhau, với những giống chỉ thấy tại Việt Nam và được Liên Hiệp Quốc che chở. Năm 1990, số rừng nguyên sinh của Việt Nam còn tương đương với 10% tổng số rừng, nhưng đến năm 2010, theo CIFOR chỉ còn khoảng 80.000 ha rừng nguyên sinh (0,6% tổng số rừng), trên nguyên tắc được bảo vệ nhưng vẫn thường xuyên bị cướp phá. Ngày nay, theo Bộ nông nghiệp công bố ngày 27/7/2016, rừng che phủ hơn 40% diện tích toàn quốc, trong đó 20% là rừng trồng (ít cây bản địa mà chủ yếu là bạch đàn, thông, keo, tre luống), 1,3% là rừng đặc sản (cao su, cà phê, hồ tiêu, lý ra không được gồm trong mục rừng), còn lại là rừng tự nhiên, đa số là rừng tái sinh thuộc loại thưa nghèo.

Hậu quả của sự phá rừng là đất bị xói mòn, trọc lở, khó canh tác, khí hậu khô hạn và nước trôi bề mặt gây ra lũ lụt, không kể sinh thái mất tính đa dạng.

Rừng bị phá do nhiều nguyên nhân, quan trọng nhất là sự gia tăng dân số lôi cuốn theo những nhu cầu về không gian, xây cất, gia dụng (củi), phát triển nông nghiệp (chuyển rừng sang đồn điền cà phê, hồ tiêu, cao su, vv.) và công nghiệp (các loại nhà máy, đặc biệt nhà máy nhiệt điện và thủy điện) ; nhưng cái tệ hại đáng kể là sự quản lý lỏng lẻo của nhà nước cộng sản trong việc cấp đất và kiểm soát sự sử dụng đất, không ngại để cho giặc Tàu nghiễm nhiên chiếm cả trăm ngàn ha rừng dưới cái cớ khai thác lâm nghiêp và công nghiệp. Nếu không có lá thư phản kháng của hai tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh[xxiii]ngày 11/2/2010 ít ai biết tặc quyền Hà Nội đã cho Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông thuê và khai thác dài hạn (50 năm) 264.000 ha rừng đầu nguồn, 87% chủ yếu ở các tỉnh xung yếu ở biên giới. Nhà nước cộng sản còn cho phép mỗi công ty Trung Quốc tàn phá cả ngàn hay chục ngàn ha rừng, kể cả rừng già, ở vùng duyên hải và các tỉnh ở Tây bắc và Tây nguyên, để có đất xây nhà máy và tùy nghi sử dụng. Ngoài ra, phải kể đến đám lâm tặc cướp gỗ từ rừng nguyên sinh và rừng già để bán cho Tàu, với sự tiếp tay của quan chức cộng sản rất sính trang hoàng nhà cửa bằng gỗ quý.

Ngư nghiệp :

  • Ngay sau hiệp định về vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được nhượng nhiều phần biển chưa đủ, đòi thêm quyền đánh cá trong vùng đặc quyền của Việt Nam, dưới hình thức một thỏa thuận « hợp tác » về ngành cá, có nghĩa là tàu bè tối tân của Trung Quốc sẽ vào phần vịnh của Việt Nam câu tranh cá của ngư dân Việt Nam với thuyền tàu nhỏ bé.
  • Do sự sa thải chất độc bởi công ty Formosa (sẽ nói ở sau), biển miền Trung coi như chết, nghề câu cá, nghề làm muối, nghề làm nước mắm cũng chết theo, gây nạn thất nghiệp, bệnh tật và nghèo đói cho ngư dân thuộc 5 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. Ngư dân nào ra ngoài khơi xa bờ biển kiếm cá sạch phải liều mạng vì thuyền gỗ nhỏ bé của họ có thể bị thuyền bọc sắt và trang bị vũ khí của ngư dân (hay lính giả làm ngư dân) Tàu đâm hoặc bắn chìm ; bén mảng xa hơn gần Hoàng Sa Trường Sa thì họ có cơ bị bắn bể sọ bởi hải quân Tàu như lại xảy ra ngày 11/3/2017 mới đây[xxiv]. Còn sợ bị Trung cộng bắn, đi xa hơn đến tận biển của Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương thì có cơ nguy bị cảnh sát của họ bắt giữ.
  • Sông hồ Việt Nam cũng đang hấp hối vì các chất độc sa thải từ các công ty bẩn không bị kiểm soát của Trung Quốc, đưa đến sự tiêu diệt dần ngành thủy sản trong nước. Ví dụ ở ngoài Bắc, theo báo Pháp luật Việt Nam ngày 10/10/2016, thủy sản ở các ao hồ Hà Nội gồm 17 000 ha, cung cấp cho 25-30% thành phố, bị nhiễm kim loại nặng như chì, thủy ngân, arsenic, cadmium, kền, crom, vv.[xxv]; ở trong Nam thì cuối năm 2014 một cuộc giám sát nguồn nước giếng khoan quanh Sài Gòn, cấp nước tiêu dùng hàng ngày cho dân chúng cho thấy trên 1400 mẫu nước thì 1360 không đạt chỉ tiêu lý hóa[xxvi], chứng tỏ các chất độc đã ăn sâu vào lòng đất.

 

Công nghiệp :

 

  • Sau mật ước Thành Đô, Việt cộng bắt buộc phải để cho người Hoa sang sinh sống buôn bán ở Việt Nam, và nhà hàng Hoa Long tại đường Hàng Trống, Hà Nội, của người Hoa góp vốn với người Việt năm 1991 là vụ đầu tư đầu tiên của Trung Quốc vào Việt Nam. Tính đến ngày 10/3/2016 Trung cộng có 1616 dự án còn hiệu lực trị giá 11,19 tỷ USD[xxvii], có mặt trên khắp lãnh thổ Việt Nam (chính thức là tại 54 trên 63 tỉnh) và là nhà đầu tư thứ 8 tại Việt Nam, nhưng sau quý đầu 2017 chúng đã nhẩy lên vị trí đầu các nước đầu tư. Cạnh phần lớn các dự án không quá 7 triệu USD (bằng nửa dự án trung bình của các nước khác) nhưng phủ rộng từ Bắc chí Nam, có một số dự án lên tới bạc tỷ USD. Thêm vào còn có những dự án trên nguyên tắc do Việt Nam hoàn toàn làm chủ, nhưng có vốn vay của Trung Quốc nên chịu cùng điều kiện bất thuận lợi. Cũng như sự nhập siêu từ Trung cộng, sự có mặt quá lớn của các công ty Tàu tại Việt Nam, ngoài cái tệ hại chèn ép nông công nghiệp bản xứ, nó còn làm trầm trọng thêm sự lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc.
  • Trung Quốc luôn luôn chọn những địa điểm có tính chiến lược để lập công ty và luôn luôn được tặc quyền Hà Nội cấp cho chúng một thửa đất rộng lớn quá nhu cầu của công nghiệp ; làm như Trung cộng lấy cớ công nghiệp để tiếp thu dần đất đai Việt Nam do Việt cộng đã bán cho chúng tại hội nghị Thành Đô, bắt đầu là những thửa đất trọng yếu nhất, quý giá nhất, đẹp nhất (vùng biên giới, Tây nguyên, duyên hải, các nơi thắng cảnh).
  • Do áp lực và tiền hối lộ của Bắc Kinh, tập đoàn Hán nô Việt Nam thông thường chọn gói thầu của công ty Tàu thay vì công ty Việt cho mọi dự án lớn bé, viện vào lý do chúng rẻ hơn, tuy biết rõ rằng giá rẻ đó chỉ là giá dỏm, khi thực thi giá sẽ vượt trội giá dự kiến. Điển hình là dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông giao cho Tàu đảm trách, khởi công năm 2008 với giá ước định là 550 triệu USD, tính hoàn thành trong năm 2013, đến nay vẫn chưa xây xong trong khi giá đã tăng thêm 330 triệu USD. Báo chí đã từng than phiền về sự làm ăn cẩu thả vô trách nhiệm của nhà thầu Trung Quốc[xxviii], khiến công trình trì trệ và thiếu an toàn (như lấy đất bùn làm đường xá sẽ làm đường lún sụn) nhưng nhà nước vẫn làm ngơ, để Tàu nắm gần trọn ngành xây cất : 90% dự án nhà máy điện, 79% dự án xi măng đều do công ty Trung Quốc thầu.
  • Chuyện nhà thầu đường sắt Cát Linh – Hà Đông thật ra không lạ vì chủ đầu tư là Cục đường sắt Việt Nam không có tiền thực hiện dự án, phải vay tiền của Trung Quốc, mà khi đã vay của đàn anh tham ác thì phải chịu những điều kiện khắt khe do đàn anh đề ra : dành mọi ưu tiên cho nhà thầu Tàu, mua thiết bị và nguyên phụ liệu của Tàu với giá do Tàu ấn định. Đặc biệt chúng bắt phải dùng lao động Tàu, tuy luật VN nhất quán « không chấp nhận lao động phổ thông nước ngoài vào VN làm việc, kể cả các công việc cần chuyên gia, giám đốc điều hành hay lao động kỹ thuật, nếu người VN có thể đáp ứng được thì cũng phải tuyển lao động VN »[xxix]. Khỏi nói, nếu chủ đầu tư là công ty Tàu kiểu như Formosa, thì chúng chẳng coi nhà nước VN là cái gì, cơ quan công quyền bị chúng cấm bén mảng tới khu công nghiệp của chúng. Thành thử hiện giờ ngay tặc quyền VN cũng không rõ hiện có bao nhiêu công dân Trung Quốc sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Nhất là với chính sách cho người Hoa đến Việt Nam không cần hộ chiếu và với số lượng cả vạn « du khách » Trung Quốc ùa vào Việt Nam mỗi ngày, làm sao biết được có bao nhiêu « du khách » ở lại VN không về, trú ngụ trong các khu và công ty Tàu ?
  • Sự lệ thuộc vào Trung Quốc khiến ngành công nghiệp của Việt Nam ở trạng thái lạc hậu không thể vươn lên được. Tiền bỏ ra để mua những thiết bị và nguyên liệu phụ trợ kém chất lượng và lỗi thời của Trung cộng[xxx] (tương đương với 70% hàng hóa nhập từ Trung Quốc) không những làm cho cán cân mậu dịch với Trung Quốc thâm thụt tới 20 tỷ USD, còn có hại cho sự phát triển và môi trường ; nếu được đem dùng để mua thiết bị và nguyên liệu của nước khác thì công nghiệp Việt Nam sẽ tiến bộ hơn nhiều. Trong khi nhà thầu Trung Quốc thiếu kỹ năng lại chỉ biết hưởng lợi, nếu để cho các nước Âu Mỹ Nhật làm tổng thầu thì họ sẽ tôn trọng hợp đồng hơn, sẽ giao một phần công trình cho người Việt giúp họ có thêm tay nghề, và nhà máy sẽ hoạt động tốt hơn.
  • Công nghiệp Việt Nam hiện không sản xuất được sản phẩm cụ thể gì cho sự tiêu dùng hàng ngày của dân chúng bởi sự cạnh tranh của hàng hóa rẻ tiền nhập từ Trung Quốc. Các xí nghiệp Việt Nam hiện tập trung vào công nghiệp nặng, khai thác tài nguyên, lắp ráp (than, thép, điện, dầu khí, cơ khí, hóa học), có ít công nghiệp chế biến (may mặc, da giầy), phần lớn được xây dựng với tiền vay từ các ngân hàng quốc tế. Đa số là những công ty nhà nước do quan chức hay thân quyến của chúng quản lý, được bổ nhiệm không phải theo khả năng mà theo bè phái, dễ bị mua chuộc và bị các doanh nhân Tàu thao túng, để rồi công ty thông thường lỗ lã nợ nần (chủ yếu nợ ngân hàng Trung cộng) chồng chất, như chẳng hạn công ty Vinachem, chủ hai nhà máy đạm ở Ninh Bình và Hà Bắc nợ tới 7000 và 8300 tỷ đồng (30,8 và 36,5 T USD)[xxxi], hay công ty PVC (tổng công ty xây lắp dầu khí VN) lỗ 2362 tỷ đồng (14,3 T USD) danh tiếng với vụ Trịnh Xuân Thanh.
  • Tuân theo yêu cầu của Bắc Kinh, Hà Nội cấp mọi sự ưu đãi cho công ty Tàu, không dám từ chối dự án nào của chúng dù nó tai hại đến đâu cho đất nước. Trung cộng đầu tư ồ ạt vào Việt Nam không phải để giúp đàn em phát triển, mà vì lợi ích của chúng và đặc biệt hơn vì qua sự du nhập vào Việt Nam những nhà máy chế biến nguy hại nhất chúng đạt được nhiều mục tiêu : chuyển sang nước khác những công nghiệp bẩn và lạc hậu để thực hiện sự canh tân theo công nghiệp cao tại nội địa, khai thác triệt để những tài nguyên và ưu thế địa lý của Việt Nam, bóp nghẹt kinh tế Việt Nam, phá hoại môi trường và phương tiện sinh kế của người Việt để dân tình suy nhược đến độ không còn sức chống lại sự Hán hóa.

 

SỰ TÀN PHÁ MÔI TRƯỜNG

Sau nhiều lần toan chiếm Việt Nam, đặc biệt sau cuộc xâm lăng bất thành năm 1979, Trung Quốc đã rút kinh nghiệm và hiểu rằng chúng không thể thành công bằng binh lực không thôi trước sự phản kháng của 90 công dân Việt Nam vốn có óc bài Hoa do lịch sử in vào tâm khảm ; muốn thôn tính Việt Nam, chúng thấy trước khi dùng đến bạo lực, phải tìm cách tiêu diệt dân Việt một cách khôn ngoan, khiến họ chết dần chết mòn, mất hết dũng khí.

Với sự đồng lõa của tặc quyền Hà Nội, không những đã cam tâm bán nước mà còn có dã tâm bán dân, từ hơn mười năm nay Bắc Kinh cho thi hành mọi phương thức có tác động đầu độc dân Việt. Nhờ vào áp lực chính trị và tài chính, Trung Quốc ép lũ tay sai Việt Nam đón nhận mọi doanh nhân Tàu muốn hoạt động tại Việt Nam. Mà doanh nhân Trung Quốc có tiếng về lối làm ăn vô trách nhiệm bất chấp luật pháp và nhân đạo. Chẳng những chúng dùng những mánh khóe gian lận mang thêm lợi lộc trong việc sản xuất, chúng còn dạy cho người Việt bắt chước chúng : pha trộn thức ăn thức uống với chất hóa học, lạm dụng phân bón và thuốc diệt trùng khi trồng trọt, đổ chất thải thẳng vào sông hồ mà không xử lý trước vv.. Qua những thỏa ước bất bình đẳng Việt Nam phải mua ưu tiên hàng hóa thiếu phẩm chất của Trung cộng từ đồ ăn đến thiết bị. Kết quả là chợ búa Việt Nam toàn hàng độc khó phân biệt tốt xấu.

Các tư nhân và nhà máy nhỏ không hại đủ, Bắc Kinh tiến lên một bước trong việc sát hại dân Việt với sự áp đặt một loạt dự án nguy hiểm khổng lồ. Nhất cử lưỡng tiện, chúng chuyển sang Việt Nam những loại nhà máy gây nhiều ô nhiễm nhất mà chúng đã phải đóng lại trong chính nước chúng, đồng thời chúng đòi xây những nhà máy đó tại những điểm trọng yếu nhất, có tính cách chiến lược nhất của Việt Nam. Biết vậy mà đám tặc quyền vẫn cúi đầu chấp nhận.

Nhà máy bauxite Tây Nguyên :

Chất bùn đỏ thải từ công nghệ nhôm độc hại đến nỗi một khi nó lan tới đâu là giết hại sinh vật và thực vật đến đó do những chất xút, arsenic, kiềm, natri phóng xạ, vv. chứa trong đó. Công nghệ tân tiến tốn kém có thể xử lý được một phần lớn nhưng không hoàn toàn loại bùn ấy. Vì vậy cho nên Trung Quốc đã phải đóng cửa các nhà máy nhôm của mình. Nhân biết Việt Nam có tại Tây Nguyên một trữ lượng bauxit (là khoáng chất luyện được thành nhôm) lớn thứ ba thế giới, lũ chóp bu Bắc Kinh, ngay từ 2001 đã gây áp lực với Hà Nội để lập nhà máy bauxit ở Tây Nguyên, một vùng được coi là « mái nhà của Đông Dương » vì từ trên đó có thể giám sát được ba nước Việt Nam, Căm Bốt, Lào. Và cuối cùng năm 2007 Nông Đức Mạnh – Nguyễn Tấn Dũng đã bằng lòng ký kết thỏa ước nhượng tới 1800 km2 cho Tàu ở Lâm Đồng và Dak Nông để chúng khai thác bauxit cùng với Việt Nam trong 6 nhà máy, với 2 nhà máy đầu tiên ở Tân Rai và Nhân Cơ được chọn ở ngay đầu nguồn các sông hồ, nhưng thực sự để làm gì với một diện tích rộng lớn như vậy ? Và chúng đã cho triển khai việc xây nhà máy bất kể đến sự phản đối của hàng ngàn chuyên gia và nhân sĩ nêu lên các cơ nguy cho môi trường và quốc phòng. Hiện hai nhà máy, tốn hơn 32.000 tỷ đồng (1,4 tỷ USD) vay của nước ngoài (Trung Quốc ?),[xxxii]đã đi vào hoạt động từ 2013 và 2016. Chưa thấy Tân Rai và Nhân Cơ mang lại lợi lộc gì[xxxiii]mà chỉ thấy bể chứa bùn đã khá đầy, nếu có mưa lũ lớn, bùn tràn ra ngoài sẽ hủy hại cả một miền từ bắc xuống nam[xxxiv], thêm vào cả chục ngàn ha rừng thiên nhiên và nguyên sinh trên đất nhượng giao cho Tàu đã bị phá hoại,và hàng ngàn người Hoa (nếu không hơn, vì ai dám kiểm soát số người cư trú trong phần đất nhượng cho Tàu), trên nguyên tắc là công nhân được nhà thầu Tàu mang theo, sống nhan nhản tại Tây Nguyên, ăn ở với phụ nữ trong vùng và sinh con đẻ cái ở đó (theo dư luận số trẻ con lai Tàu có quốc tịch Tàu nơi đó đã lên tới ít nhất 3000, khiến Trung cộng đòi Việt Nam mở trường học dạy tiếng Tàu cho chúng). Đấy là không kể sự phá rừng Tây Nguyên vì lý do phát triển đã tiêu diệt cả một nền vãn hóa đặc trưng của đồng bào Thượng, đưa họ vào cảnh lầm than điêu đứng.

Nhà máy thép Formosa :

Năm 2008, Bắc Kinh lại làm áp lực chính trị và đặc biệt tài chính (qua tiền hối lộ các quan chức) với Hà Nội để Việt Nam chấp nhận cho tập đoàn Formosa Plastic mở một nhà máy gang thép tại Hà Tĩnh cùng một nhà máy nhiệt điện ở ngay bờ biển. Để thực hiện dự án được khoe là trị giá 28,5 tỷ USD, 10 tỷ trong giai đoạn đầu, tập đoàn đã lập ra một công ty con lấy tên là Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh, gọi tắt là công ty Formosa. Nghe tên thì tưởng Formosa thuộc về Đài Loan, nhưng trên thực tế, công ty con này đã bán hầu hết cổ phần cho công ty Trung Quốc và đấy là một công ty của Tàu cộng. Bắc Kinh bèn chọn một dãy đất ở dưới Đèo Ngang gồm cảng Sơn Dương tại Vũng Áng (một hải cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu thủy tới 50.000 DWT), một khu hết sức xung yếu của Việt Nam, và năm 2010 bắt cặp bán nước Nông Đức Mạnh – Nguyễn Tấn Dũng cắt tại đó cho Formosa 3.300 ha (gồm rừng mưa quý giá chẳng bao lâu bị chúng phá sạch), dưới hình thức cho thuê dài hạn 70 năm nhưng thật ra là gần như cho không vì đất được miễn đủ thứ thuế, ngay cả tiền thuê đã rẻ bèo còn được miễn trong 15 năm.[xxxv] Thêm vào chúng còn được quyền tùy nghi xây cất cơ sở hạ tầng cùng đưa công nhân của chúng đến ở và để có chỗ ở cho công nhân chúng đang xây một chung cư lớn trên 14 ha cắt thêm cho chúng tại Kỳ Anh.

Kệ cho dư luận bàn tán và đám dân nghèo bị cướp đất kêu ca, dự án Formosa được tiến hành năm 2012. Hơn ba năm sau (2015) ai cũng có thể nhận thấy trên Google map rằng trong khu nhượng địa Formosa, được xây cả một thành phố với nhiều kiển trúc biệt lập trong đó nhà máy thép chỉ là một cơ quan phụ.

Ngày 6/4/2016, dân Vũng Áng ngủ dậy ra biển thấy cá chết chồng chất trên bãi. Hiện tượng mỗi ngày một tăng cho tới ngày 18/4 hàng hàng cây số bờ biển miền Trung đầy dãy cá chết. Thảm họa này không hề được cơ quan chính quyền quan tâm. Để tìm hiểu nguyên nhân, ngư dân trong vùng lặn xuống biển và khám phá ra một dòng nước thải màu nâu cam tuôn ra từ một ống ngầm của nhà máy thép. Phải đợi sáu tuần sau những cuộc biểu tình dài dẵng của ngư dân Hà Tĩnh chống Formosa, quan chức nhà nước mới lên tiếng công nhận đấy là một thảm họa lớn và khiến công ty nhận trách nhiệm đồng thời nhận bồi thường 500 triệu USD. Số tiền này chẳng đáng là bao so với những thiệt hại gây ra : biển chết, cả triệu ngư dân mất công ăn việc làm, ngành cá và hải sản miền Trung suy sụp gây ra nạn thất nghiệp ; nam nữ thanh niên và trung niên phải đi tha phương cầu thực. Mà không rõ số tiền đã được trao trả cho phía Viêt Nam chưa hay vào túi ai rồi, bởi người dân miền Trung từ hơn một năm nay vẫn không có trợ cấp từ cơ quan nhà nước. Và hơn một năm sau, nước thải đỏ vẫn tiếp tục chảy ra biển, lan dần tới Đà Nẵng.

Điều khó hiểu là Trung Quốc với Việt Nam lập nhà máy gang thép để làm gì, khi Trung Quốc đang phải trữ một lượng thép lớn không bán được do sản xuất thặng dư so với nhu cầu thế giới, và Việt Nam đã có nhiều nhà máy thép nhỏ hoạt động một nửa công suất cùng một nhà máy thép lớn ở Thái Nguyên (Tisco) đang xây dở[xxxvi]. Lại nữa, Formosa không phải là một tập đoàn lành nghề thép, và nhà thầu Trung Quốc chỉ biết nhập thiết bị kém cỏi của nước họ, làm sao chúng dám bảo đó sẽ là nhà máy thép lớn nhất và tối tân nhất Đông Nam Á ? Thêm vào, công ty Trung Quốc làm chủ dự án 10 tỷ nhưng thực vốn chỉ có 3,8 tỷ, còn lại phải vay ngân hàng ; thế là thường, nhưng tại sao nhà nước Việt Nam lại nhận bảo lãnh số tiền chúng vay nước ngoài biến nó thành nợ công, rồi cho phép chúng vay thêm ngân hàng thương mại VN tới 40 tỷ ? Phải chăng đây là một cách cướp tiền của dân qua Formosa ? Sự thỏa thuận giữa Bắc Kinh và tặc quyền Hà Nội thật rất chi là mờ ám[xxxvii].

Ngoài ra, tập đoàn Formosa có tai tiếng vì những hành sự phá hại môi trường, đi đến đâu là có chuyện ở đó. Bắc Kinh thừa biết vậy mà vẫn liên minh với đám doanh nhấn ấy ; chúng cố ý chọn Formosa chính vì lý do đó chăng, bởi mục đích ngầm của chúng là dùng Formosa để diệt dân miền Trung và thay thế họ bởi công dân của chúng ? Theo ban quản trị Formosa, nhà máy chưa hoàn thành hẳn tức chưa hoạt động thực sự, vậy chúng lấy ở đâu ra nhiều chất thải đến nỗi nhiễm độc cả một dọc 250 km biển ? Như nhiều nhân chứng nghi ngờ, nhà máy thép phải chăng chỉ là một công ty giải quyết chất thải trá hình ? Họ nói đã phát giác nhiều điểm chôn chất thải quanh nhà máy, ngay cả một trang trại 16 ha chứa rác của Formosa tại Kỳ Long[xxxviii]. Và liệu tặc quyền Việt Nam có biết chăng cái dụng ý biến đất nước thành bãi chứa rác công nghệ khồng lồ của Trung Quốc và Đài Loan ?

Tháng 9/2016, đương lúc lòng dân công phẫn về vụ Formosa, Bộ Công Thương tuyên bố đưa vào quy hoạch một dự án 10 tỷ USD để xây một nhà máy luyện cán thép lớn ngang Formosa tại Cà Ná, Ninh Thuận, trên 150 ha bờ biển được tỉnh cho thuê không lại thêm nhiều ưu đãi về thuế má và tiếp vận. Dự án do tập đoàn Hoa Sen đề xuất, nhưng tập đoàn này chỉ có nhiều nhất 300 triệu USD vốn, lại có khoản nợ bằng một nửa số vốn thì lấy đâu ra để đầu tư nếu không là bù nhìn của Trung Quốc[xxxix] ? May mà vụ Formosa vẫn nóng nên cuối cùng TT Nguyễn Xuân Phúc phải yêu cầu tạm ngưng dự án. Nếu ngày nào nhà máy Cà Ná hoạt động và cũng xả chất thải không xử lý, chắc chắn phần biển miền Nam sẽ chết tiếp.

Nhà máy giấy trên sông Hậu và sông Tiền

Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của nước Việt, phì nhiêu nhờ vào vô số rạch tủa ra khắp đồng bằng từ hai nhánh chính Tiền và Hậu của sông Cửu Long. Muốn kiềm chế hay tiêu diệt miền Nam, chỉ cần đe dọa hay đầu độc hai con sông đó.

Tháng 5/2007, công ty Lee § Man của Trung Quốc (trụ sở tổng bộ tại Đông Quản, Quảng Đông) được tặc quyền cho phép thực hiện một liên hiệp nhà máy giấy trị giá 1,2 tỷ USD, gồm một nhà máy giấy tẩy trắng với công suất 330.000 tấn/năm, một nhà máy giấy cứng, bao bì cao cấp với công suất 420.000 tấn/năm, một nhà máy nhiệt điện, một nhà máy xử lý nước thải, và một bến cảng, tại một thửa đất 200 ha ở Phú An – Mái Dầm, huyện Châu Thành, Hậu Giang, ở đầu nguồn sông Hậu. Vì gặp khó khăn, đến 2014 công ty mới khởi động dự án.

Tuy không biết rằng công ty Lee § Man từng có thành tích làm ô nhiễm sông Dương Tử và Trường Giang ở ngay Trung Quốc nước họ, do suy luận các chuyên gia và dư luận lề đảng cũng thấy cần phải phản đối dự án, vì nó đe dọa sự sinh tồn của sông Hậu, là con sông nuôi dưỡng đồng bằng sông Cửu Long[xl]. Công ty chỉ vận trù 20% dự án với cây nguyên liệu còn sẽ phải dùng giấy vụn và giấy phế liệu nhập từ các nước khác. Không rõ nhà máy sẽ dùng phương thức gì để tẩy trắng giấy cũ[xli], bởi tùy theo phương thức chất thải sẽ ít/nhiều độc hơn, nhưng theo lượng nước lớn trù tính (20.000 đến 50.000 m3/ngày-đêm) xả ra ngoài thì công nghệ dùng không tân tiến lắm. Nhà máy giấy thuộc loại công nghiệp gây nhiều ô nhiễm nhất, nếu hệ xử lý nước thải không nghiêm ngặt, nước đầy cơ chất clo như dioxin, cộng với phénol, hydrôcacbua, kim loại vv. sẽ sớm tiêu diệt hết sinh vật và thực vật trên và trong sông rạch miền Tây Nam Bộ ; ngay nếu có hệ xử lý tốt, nó không thể loại hết các chất độc, lại nữa nó dùng quá nhiều nước nên chiếm phần nước ngọt dành cho các sinh hoạt khác ; kết quả sẽ là sông chết, thủy sản chết, lúa chết và người cũng sẽ chết theo[xlii]. Mới đi vào giai đoạn thử nghiệm sáu tháng kể từ đầu tháng ba, nhà máy đã làm cho dân Châu Thành khổ vì bụi bậm, mùi hôi thối và tiếng ồn. Sau một tháng bộ Tài nguyên môi trường mới thức tỉnh và bắt nhà máy sửa sai, nhưng nhà máy vẫn được chạy thử.

Nhà máy giấy ở Hậu Giang chưa xây xong thì đầu năm 2016, chỉ trong ba tháng, công ty Chang Yang Holding Limited (nguyên của Đài Loan nhưng năm 2008 đã trở thành công ty con của Tập đoàn Nine dragons paper holdings limited của Trung Quốc) đã được cấp giấy phép xây một nhà máy giấy khác tên là Đại Dương tại Long Giang, Tân Phước, Tiền Giang, trên một thửa đất 22ha ở đầu nguồn sông Tiền, với tổng vốn đầu tư là 220 triệu USD, để sản xuất giấy duplex, giấy kraft và giấy gia dụng[xliii]. Nó sẽ xả nước vào kênh Năng là đường tuyến đi vào Đồng Tháp Mười. Nhỏ hơn Lee § Man, nó cũng sẽ dùng nguyên liệu giấy vụn và giấy phế bỏ. Theo hợp đồng, tháng 8/2017 nhà máy sẽ đi vào hoạt động nhưng dư luận yêu cầu nhà nước thu hồi dự án ; trong trường hợp này công ty Chang Yang đòi được bồi thường 10 triệu USD.

Nhà máy điện :

Để có điện, tặc quyền Việt Nam thoạt đầu noi gương Trung Quốc, triệt để khai thác thủy điện. Nhà nước chỉ công nhận có 888 nhà máy thủy điện, nhưng theo báo The diplomat thì Việt Nam có hơn 7000 (!) đập hay đơn vị thủy điện. Từng đó nhà máy chỉ cung cấp được 30% điện trong nước. Nguyên do của sự kiện là xây đập chỉ là có cớ để được cấp đất cho hồ chứa nước, mà đất ở trên cao để xây đập thường là đất phủ rừng già có gỗ quý. Được giấy phép xây đập là có thể phá rừng buôn gỗ có lợi lớn. Thành thử rất nhiều đập bị xây bởi những kẻ chẳng biết gì về công nghệ thủy điện (phần lớn là người Hoa biết đút lót quan chức địa phương) không vững chắc nên thường bị vỡ, không được quản lý tử tế vả xả nước bất thần, gây ra nhiều thiệt hại cho dân gian.

Không còn nơi để khai thác thủy điện, ngõ hầu đáp ứng nhu cầu sản xuất điện để kèm theo sự phát triển kinh tế[xliv], Việt Nam chọn sự khai triển nhà máy nhiệt điện, chủ yếu nhiệt điện than thay vì hướng về một năng lượng tái tạo như gió thích hợp với một nước có hơn 3000 km bờ biển. Song, về sự gây ô nhiễm không khí thì nhiệt điện đoạt kỷ lục, ở đâu có nhà máy nhiệt điện thì trời u tối, bụi than tô đen nhà cửa và vật dụng, số dân cư mắc bệnh đau phổi gia tăng hẳn.  Bắc Kinh đã phải đóng cửa nhà máy nhiệt điện của chính họ. Thế nhưng Hà Nội quy hoạch cho xây 20 nhà máy nhiệt điện[xlv], tính sẽ tăng số đó lên tới 80 vào năm 2030. Bắc Kinh khuyến khích quyết định ấy và lợi dụng nó để du nhập công ty của họ tại những địa điểm trọng yếu do chúng chọn, ví như Vĩnh Tân 1 ở Bình Thuận, hiện là nhà máy điện lớn nhất Việt Nam, trị giá 1,75 tỷ USD, nằm trên 58 ha cạnh khu bảo toàn biển. Trên 20 nhà máy nhiệt điện hiện hữu, có 15 do Trung cộng làm chủ hoặc tổng thầu, toàn là những dự án đồ sộ, có tác động lớn trên môi trường, mà công nghệ của Tàu về nhà máy than rất lạc hậu, nên dễ xảy ra sự cố, như với nhà máy Duyên Hải 1, vừa mới đi vào hoạt động tháng 1/2016 đã khiến dân lân cận nghẹt thở vì khói bụi, đe dọa nghề muối của họ[xlvi].

Hậu quả ô nhiễm môi trường:

Ngoài ra, Trung Quốc còn chuyển sang Việt Nam hàng loạt nhà máy nữa, toàn những công nghiệp nguy hại như nhà máy nhựa, nhuộm, vv. Hậu quả là với một mạng nhà máy lớn bé có tác động gây ô nhiễm phủ khắp Việt Nam, đặc biệt ở những điểm xung yếu của đất nước như tại đầu nguồn nước, cạnh các thành phố lớn và các khu nông nghiệp quan trọng nhất, chúng có thể dễ dàng đe dọa và giết hại chúng ta mà không mất một viên đạn[xlvii]. Không cần đánh đuổi, với sự trợ giúp của lũ tay sai tham ô bất tài, chúng đã đẩy khỏi Việt Nam hơn 2,5 triệu người, bắt buộc phải bỏ nước ra ngoại quốc để kiếm ăn và lập cư[xlviii]. Nhờ vào sự khống chế nguồn nước ở thượng lưu sông Cửu Long, một nửa miền Tây Nam bộ gần như đã chết, và nông dân đã phải bỏ nhà bỏ đất (được người Hoa sẵn sang mua lại) đi nơi khác, khiến nghề nông thiếu nhân công. Ở miền Trung cũng vậy, do biển chết, hàng triệu người mất công ăn việc làm, nam nữ có học và khỏe mạnh phải bỏ nhà ra nước ngoài ; cứ nom những đoàn biểu tình ở Hà Tĩnh gồm toàn người già, phụ nữ và trẻ con mà phát buồn.  Điều ô nhục cho đất nước là phần lớn những người dân di tản đó ra nước ngoài chẳng phải để nở mặt nở mày với người mà để làm mọi cho dân họ, cho cả dân Căm Bốt và Lào, một hiện tượng không ai tưởng tượng nổi trước 1975. Còn những người ở lại thì sao ? Ngoại trừ thiểu số trục lợi nhờ vào Đảng, toàn dân sống thường trực trong sự lo âu : lo bị chân tay của đảng hạch sách đã đành, họ còn đặc biệt lo cho sức khỏe của gia đình họ : sống thì phải thở, phải ăn, phải uống, phải rửa ráy, nhưng làm sao biết được và tránh được không khí độc, nước độc, thức ăn độc khi bụi bẩn ngập không gian, khi sông ngòi đục ngầu với rác rưởi, khi mắm muối phát sinh từ biển chết, khi rau quả thịt tẩm hóa học tràn lan ? Số người Việt mắc bệnh ung thư càng ngày càng tăng. Theo cơ quan y tế quốc tế (WHO) năm 2015 mỗi ngày ở Việt Nam có 360 người chết vì ung thư, và có thêm 115.000 ca ung thư mới, và năm 2020 Việt Nam sẽ là nước có nhiều người mắc bệnh ung thư nhất thế giới[xlix].

Tập Cận Bình và đồng bọn có thể vỗ đùi cười, vì mưu đồ của chúng diễn ra như ý muốn. Dân Việt Nam đang dần dần bị tiêu diệt, thanh niên trai tráng còn sức chống lại chúng thì đã và đang bỏ nước không có mặt tại nhà ; còn lại những người ốm yếu làm gì được chúng. Trừ phụ nữ có thể dùng làm gái cho chúng, chúng chẳng màng gì đến dân Việt. Chúng chỉ cần làm chủ Việt Nam để khai thác dầu mỏ, khoáng sản và lập căn cứ quân sự canh giữ Biển đông.

 

SỰ ĐE DỌA BINH ĐAO

Trong khi các nước văn minh chỉ cho xí nghiệp nước ngoài hoạt động nếu họ mang đến việc làm cho dân bản xứ, tặc quyền Hà Nội cho phép các công ty Trung cộng đem công nhân của chúng theo. Ngoài cách vào Việt Nam dưới hình thức công nhân, dân Trung Quốc có thể du lịch vào Việt Nam rồi không về nước, hay vào lậu thẳng trong các máy bay và tàu thủy của nước chúng. Các cơ quan công quyền Việt Nam (được chỉ thị) không dám kiểm soát giấy tờ người Hoa, cũng không có quyền vào các khu nhượng cho Trung cộng, cho nên hiện chẳng ai rõ có bao nhiêu Hoa kiều, công nhân hay không, sinh sống tại Việt Nam[l]. Điều hiển hiện là đám Hoa kiều phần lớn là đàn ông vạm vỡ, có nhiều khả năng đấy là quân nhân trá hình. Vả lại trong các khu đặc nhượng bao la như Bauxit Tây Nguyên và Formosa, Trung cộng có thể chứa cả vạn người, cả đống khí giới mà chẳng ai biết. Tin đồn còn rao Trung cộng đã đào hầm trong các xí nghiệp lớn của chúng ngoài hai con đường hầm đủ rộng cho xe tăng tàu bò chạy từ Tây Nguyên xuống Đồng Nai.

Như vậy, trong trường hợp phải dùng tới giải pháp binh đao, Trung cộng coi như đã có sẵn nhiều căn cứ quân sự trong đó chúng đã chuẩn bị cả chục sư đoàn. Từ biên giới Bắc Việt do chúng kiểm soát, chúng có thể điều động thêm binh lính tiến vào Hà Nội. Tại cảng sâu Vũng Áng là cảng có thể tiếp nhận tàu thủy có 30.000 tấn trọng tải và tàu ngầm, chúng có thể cho quân đổ bộ vào miền Trung để kết hợp với các sư đoàn ở trong Formosa và tấn công các tỉnh ngoài Trung rồi cắt Việt Nam làm hai. Từ Hải Nam, Hoàng Sa và Trường Sa chúng có thể dội hỏa tiễn hay cho phi cơ dội bom vào Đà Nẵng, Đà Lạt, Nha Trang. Những sư đoàn đóng ở Tây Nguyên sẽ đổ xuống miền Nam đồng thời với quân đội Miên và Lào là hai nước hiện bị Trung cộng chi phối.

Tóm lại, mộng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc chưa bao giờ dừng từ xưa tới nay. Với sự hỗ trợ đắc lực của tặc quyền Hà Nội chúng gặp thời cơ sáp nhập Việt Nam một cách khôn khéo êm ả theo kiểu tầm ăn dâu, không cần phải đấu đá ; chỉ trong trường hợp bất đắc dĩ như xảy ra chiến tranh Biển đông hay cuộc khủng hoảng nào khác chúng mới phải dùng tới quân đội. Năm 2008 trong trang điện tử của Sina.com, chúng huênh hoang sẽ đánh chiếm được Việt Nam trong 31 ngày[li], nhưng ngày nay nhờ sự tăng cường của quân đội chúng, thời gian đánh thắng sẽ ngắn hơn nhiều. Bởi chúng được sự tiếp tay của bè lũ Hán nô đã vô hiệu hóa quân đội Việt Nam. Tướng tá Việt Nam hiện là người Trung Quốc hay đã được Trung Quốc huấn luyện. Để dễ cài lính Trung cộng vào quân đội Việt Nam, năm 2009 tặc quyền Hà Nội đã thay đổi quân phục Việt Nam cho giống hệt quân phục Trung Quốc, chỉ khác cái mũ của lính Việt có thêm đường viền đỏ và nếu nhìn kỹ màu xanh lục của quân phục Trung cộng đậm hơn một chút[lii] ; nếu lính Trung cộng gắn thêm đường viền trên mũ hoặc bỏ mũ ra, dân Việt Nam làm sao phân biệt được quân thù với quân ta. Hay là, đáng sợ hơn, quân ta đã biến thành quân thù rồi ?

 

Hỡi dân Việt Nam, hãy thức tỉnh ! Giặc nội xâm với giặc ngoại xâm đang tàn phá nước ta, kìm kẹp dân ta ! Tất cả những lời hoa mỹ trấn an mà đảng cộng sản rót vào tai các bạn chỉ là những lời dối trá lừa bịp. Hãy nhìn những gì chúng làm và nhất là hãy nhìn xung quanh các bạn.  Sự thật còn trầm trọng hơn những điều tôi ghi chép vì thiếu tài liệu tôi không tra được hết. Giặc Tàu đang chùm lưới trên đầu các bạn. Muộn nhất là năm 2020, nhưng có nhiều triệu chứng là sẽ sớm hơn, Trung Quốc sẽ chính thức hóa sự thống trị của chúng, và lần này dân ta sẽ không phải chịu một cuộc đô hộ ngàn năm nữa đâu mà một cuộc diệt chủng vĩnh viễn, thiểu số sống sót sẽ bị Hán hóa quên hẳn giống nòi. Bè lũ bán nước, biết trước đại họa từ hai chục năm nay, đã ngày đêm kiếm cách bóc lột các bạn, cướp đoạt tài sản quốc gia, tẩu tán tiền của ra nước ngoài để, sau khi chốn chạy, phè phỡn trên nước mắt và sương máu của các bạn. Chúng đã gửi trước vợ/chồng con cái chúng sang các nước tư bản « dãy chết » để tránh nạn. Sự bất tài và tham ô của chúng cùng sự khuyên bảo xảo quyệt của giặc Tàu đã làm cho kinh tế nước nhà kiệt quệ, vỡ nợ đến nơi. Vì trong ngân khố quốc gia hiện nay chỉ còn 40 tỷ USD ngoại tệ mà nợ công chồng chất và năm nào ngân sách cũng bội chi khoảng 7 tỷ USD. Con số nợ công chính thức cho 2017 là 117 tỷ USD (= 64% GDP), nhưng theo nhiều chuyên gia, phải nhân gấp 2 gấp 3 con số ấy[liii]. Trong khi đó, số tiền do các quan chức Việt Nam biển thủ giấu nhẹm cộng lại lên tới gần ngàn tỷ USD[liv]. Chỉ có một lối thoát khỏi cảnh nô lệ duy nhất cho các bạn là vùng lên đánh đổ cái chế độ cộng sản bán nước hiện tại, để lập lên một thể chế tự do độc lập thực thụ có tư cách tố giác các thỏa ước bất bình đẳng ký kết với kẻ thù bởi tập đoàn Hán nô, có thể liên minh với các quốc gia tự do khác để có hậu thuẫn đương đầu với giặc Tàu. Vấn đề không còn là kiên nhẫn đợi chờ cho đảng từ từ thay đổi và giải thể, vì thời gian quá kíp. Các bạn không còn năm, mà chỉ còn tháng, có cơ chỉ còn tuần để xoay ngược vận mệnh của các bạn và con cháu các bạn. Hỡi toàn dân Việt Nam, hãy nghe tiếng gọi của tổ quốc và tổ tiên, hãy tạm gạt những bận lòng cá nhân để cùng nhau giật lại quyền công dân khỏi tay giặc. Chúng có hung dữ đến đâu, chúng chỉ có thể đàn áp trăm người, nghìn người, cả vạn người, nhưng hàng trăm nghìn người, hàng triệu người xuống đường không thôi, chúng làm gì nổi ? Đồng bào tôi ơi ! Can đảm vào ! Hãy tỏ cho thế giới rằng tinh thần bất khuất từ Trưng Trắc đến Nguyễn Huệ còn nung nấu trong lòng các bạn ! Các bạn nhất trí quật cường thì lịch sử Việt Nam sẽ tiếp tục tiến và ghi ơn các bạn.

 

Đặng Phương Nghi

Paris, 30/4/2017

[i] Người đầu tiên nêu ra việc giả mạo này là một tác giả Đài Loan trong một cuốn sách có nhan đề là « Hồ Chí Minh » viết bằng tiếng Nhật năm 1946, và điều ông nói được xác định bởi một tờ báo của đảng CS Trung quốc  tại Cương Sơn năm 1949 ; nhưng sự kiện được ếm nhẹm cho tới đến năm 2008, khi Hồ Tuấn Hùng, một học giả cũng người Đài Loan cho ra quyển « Hồ Chí Minh sinh bình khảo » trong đó ông dẫn chứng lai lịch Tàu Đài Loan, gốc Hẹ, của Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương. Nhưng phaỉ tới 2013, khi sách này được dịch ra việt ngữ bởi Thái Văn, vấn đề Hồ Chí Minh giả mới được nhiều người Việt Nam đặt ra, tranh luận hay thêm chứng cứ. Có nhiều bài đứng đắn trên Mạng, để có một ý niệm rõ ràng xem : Trần Việt Bắc, Hồ Chí Minh : Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (http://www.geocities.ws/xoathantuong/tvb_hcmdongchi.htm).

 

[ii] Xem : Thụy khuê, Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản, trong Vinasia.org .

 

[iii] Xạo ở hai điểm : Thứ nhất về phần tuyên ngôn thì Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập trước rồi (Bảo Đại ngày 12/3/1945,Hồ Chí Minh ngày 2/9/1945 ; thứ hai về sự độc lập thì Hồ Chí Minh không hề giành nổi độc lập cho Việt Nam từ tay chính phủ bảo hộ Pháp, mặc dầu ông ta chạy chọt đủ cách với chính khách Pháp khi sang Pháp vào tháng 6-9/1946 ; ngược lại qua thỏa ước ký với Bảo Đại ngày 5/6/1948 Pháp rõ ràng « long trọng thừa nhận sự độc lập của Việt Nam và để cho Việt Nam tự do thực hiện sự thống nhất của mình ».

 

[iv] Xem : Đặng Chí Hùng, Bằng chứng bán nước toàn diện của đảng cộng sản VN, trong blog Sinicization of Indochina ( http://namviet.net/blog-hanhoa/?p=657#.WNaot7g8acM) : Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” – số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao như sau:“Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau để giữ tình đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như sau:

Điều 1: Chính phủ Trung Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.

Điều 3: Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên ban theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết (Phụ lục đính kèm).

 

Điều 4: Trước đảng và chính phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực thi kể từ ngày hôm nay 12/06/1953.

 

Điều 5: Chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh (Phụ lục đính kèm).

 

….Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”

 

 [v] Tháng hai 1979, để trừng trị Việt Nam dám đánh chiếm Căm Bốt, Đặng Tiểu Bình cho lùa hơn 600 000 đội quân xâm nhập Việt Nam, tàn phá các tỉnh biên giới, gặp ai là chém giết không ngừa người già trẻ nít, nhưng nhờ sự phản kháng kịch liệt của binh lính và dân quân tự vệ, quân Tàu phải rút lui tháng sau, nhưng sau đó lại tiếp tục gây hấn và chiến tranh giữa hai bên kéo dài tới tận 1989 ; chính trong thời gian này, năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng đảo Gạc Ma ở Trường Sa ; nhưng vì từ năm 1987, thấy Nga Sô có cơ nguy biến với chính sách cởi mở của Gorbatchev, nhóm cầm quyền Hà Nội đã có tâm đầu hàng Trung cộng nên cấm ngặt binh sĩ ở Gạc Ma chống trả, khiến họ chết một cách tức tưởi lãng xẹt. Về sự tàn bạo của chiến tranh Việt-Trung dưới mắt của chính người Hoa, xem : Tù binh chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc 1979-1989, trong Phan Ba’s Blog, 24/2/2017 (https://phanba.wordpress.com/2017/02/24/tu-binh-chien-tranh-viet-nam-trung-quoc-1979-1989/) .

 

[vi] Xem bài báo của Kerby Anderson Nguyễn đăng lại trong Văn thơ Lạc Việt (http://vantholacviet.com/tuong-cong-san-viet-nam-ha-thanh-chau-da-xin-ty-nan-chinh-tri-tai-hoa-ky-va-tiet-lo-am-muu-ban-nuoc/ ) và trong trang web của Việt Nam cộng hòa hải ngoại : http://www.vnchhiepdinhparis1973.com/SUB_TaiLieuLichSu/TaiLieuLS1307072304.shtml . Ngoài bài báo của ông K.A Nguyễn không thấy ai khác nói về tướng Hà Thanh Châu, nhưng mặc dầu trên Mạng thường được tuôn ra nhiều tin đồn thất thiệt, những điều được tác giả nêu ra coi như khả tín vì trùng hợp với những tin xuất từ nhiều nơi khác. Năm 2014, hành động bán nước của tập đoàn cầm quyền Hà Nội được hai tờ báo Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu thời báo của Trung Quốc công nhận, khiến cho dư luận ở Việt Nam xôn xao, nhưng nhà nước cộng sản không chịu công bố mật ước, chỉ cho ban Tuyên giáo phủ nhận và giải thích dòng dài về nội dung của thỏa ước. Song hành xử ngang ngược của Trung cộng tại Việt Nam cùng những nhượng bộ hèn mạt đối với chúng trên thực tế của nhóm cầm quyền Hà nội không thể không minh định cho tính xác thực của tin tức trên.

 

[vii] Diện tích mất đi được ước chừng từ 700 đến15000 km2. Xem bài của Tèo Ngu Khìn, Hơn 15 000km2 đất của VN mất vào tay ai, trong Dân làm báo ( http://danlambaovn.blogspot.com/2016/10/hon-15000-km2-at-cua-viet-nam-mat-vao.html)  và của Trương Nhân Tuấn, Việt Nam có mất đất… ,trong blog Những vấn đề Việt Nam (http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/11/viet-nam-co-mat-at-mat-bien-qua-hai.html) . Một việc đơn giản để biết về con số đất mất đi là so sánh diện tích toàn thể Việt Nam được các nhà địa lý hay cơ quan địa lý ghi nhận trước và sau 2000. Kẹt một cái là các sách báo không đồng nhất về con số, và ngay trong cùng một bài các tác giả đứng đắn nhất cũng đưa ra nhiều con số mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, có thể có một ý niệm về số đất mất đi qua hai con số trước sau 2000 nêu ra trong cùng một bài báo cáo về rừng của một nhóm nhà nghiên cứu địa lý (Phạm Thu Thủy, Moira Moelino vv., Bối cảnh REDD+ ở Việt Nam…, Cifor, Bogor Barat, 2012). Những tác giả này công nhận con số 14,3 triệu ha rừng tương đương với 43% diện tích cả nước cho năm 1943 của các nhà địa lý châu Âu, tức tổng diện tích năm đó là 332.679 km2, và con số năm 2010 của FAO theo đó 13,797 triệu ha bao phủ 44% diện tích cả nước, tức tổng diện tích năm đó là 313.568 km2. Số chênh lệch giữa hai tổng diện tích = 19.111 km2 có thể được coi như diện tích bán cho Tàu.

 

[viii]  Khi so sánh các bản đồ, Vũ Hữu san, trong bài Bản đồ phân chia vịnh Bắc Việt, cho thấy Việt Nam chỉ còn 45% vịnh thay vì 53% như chính thức được công bố (http://vuhuusan05.tripod.com/bandophanchia.htm ). Xem thêm: Đại Dương, Ai đang mãi quốc cầu vinh ?, trong Vietnam daily, 23/4/2002 (http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=7775 .

 

[ix] Có thể bản đồ đó đã bị nhà nước thu hồi, nhưng Trung cộng có chụp lại nó trong tài liệu tuyên truyền của Bắc Kinh. Đối với quốc tế, Trung cộng luôn luôn khẳng định rằng hai quần đảo HSTS thuộc về lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa, và đưa ra một số cứ liệu lịch sử gượng gạo, nhưng trong một thông báo của nhà cầm quyền Bắc Kinh đọc trên đài truyền hình « Tiếng nói nhân dân Trung Hoa » phát thanh bằng tiếng Việt, tôi thấy lần đầu tiên Trung Quốc công khai tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam nhưng đã được Cộng sản Việt Nam nhượng cho Trung Quốc : «… Chúng tôi đồng ý là Hoàng Sa và Trường Sa và bờ biển thuộc Việt Nam, nhưng cộng sản Việt Nam đã ký công hàm do thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 7/6/1958. Trung Quốc có đầy đủ những chứng cứ không thể chối cãi trên vùng biển, và Trung Quốc sẽ được khai thác dầu khí của Việt Nam, cộng sản Việt Nam sẽ không thể làm gì được… » (https://www.youtube.com/watch?v=RCLlsvpRNhg) .

 

[x]  Bằng chứng, hình của cờ Đoàn thanh niên này trong Wikipedia pháp ngữ, mục Drapeau de la république populaire de Chine. Trong một thời gian tỉnh Phúc Kiến cũng có một lá cờ sao vàng nhưng khác ở chỗ nền của nó chia làm hai, nửa xanh, nửa đỏ (xem trên mạng mục : cờ của Phúc Kiến, tiếng anh), và có thể đó là lá cờ toán quân Việt Minh cầm khi tiến vào Hà Nội năm 1945, theo lời tả của một số nhân chứng, nhưng chắc chắn đấy là cờ (với phần nền xanh nhạt hơn) được Mặt trận giải phóng miền Nam chọn làm cờ hiệu sau này. Ngoảnh đi ngoảnh lại đảng cộng sản Việt nam không ngừng loay hoay với cái gốc gác Tàu cộng của nó.

 

[xi] Xem trong RFA ngày 12/1/2017, Cưỡng chế tượng Trần Hưng Đạo tại tư gia là trái luật : http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/will-statue-inside-private-property-be-evicted-illegally-ha-01122017080011.html/.

 

[xii] Theo thống kê của « Biên phòng » ngày 18/1/2017, thì trong năm 2016 tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung là 70,6 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 21,8 tỷ và nhập khẩu 49,9 tỷ. Đặc biệt là số do Trung Quốc và Việt Nam đưa ra rất khác nhau. Như về năm 2015, theo « Bộ công thương Việt Nam » (báo ngày 9/11/2016), thống kê của hải quan VN cho biết tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung là 66,6 tỷ USD với 17,1 tỷ xuất khẩu và 49,5 tỷ nhập khẩu ; nhưng phía Trung Quốc đưa ra con số tổng kim ngạch = 95,8 tỷ USD với 29,67 tỷ nhập khẩu (từ VN) và 66,14 xuất khẩu (từ TQ) – http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/ca_tbd/nr040818094447/ns150401025706  – không hiểu số chênh lệch những 29,2 tỷ USD là do đâu ? do sự buôn lậu hay biển thủ tại Việt Nam ?

 

[xiii] Xem : Brantly Womack, Vietnam and China in an era of uncertainty, The Asia Pacific journal, 9/2009, do Ngô Bắc dịch, trong http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacWomackBatDinhKinhTe.htm .

 

[xiv] Xem bài báo trên.

 

[xv] Theo giá thị trường năm 2016, than Nam Dương rẻ nhất : 45,3 USD/1 tấn, than Úc : 53 USD/1 tấn, than Nga : 63 USD. Không hiểu vì lý do gì Việt Nam đi nhập thêm 1,5 triệu tấn than Tàu với giá cứa cổ là 85 USD/1 tấn. Xem : Nguyễn Tuyền, Than nhập từ Trung Quốc về Việt Nam giá đắt nhất thế giới, trong Dân trí, 16/10/2016 (http://dantri.com.vn/su-kien/than-nhap-tu-trung-quoc-ve-viet-nam-gia-dat-nhat-the-gioi-20161016063417389.htm) .

 

[xvi] Trong bài « Quan hệ thương mại Việt Trung, bối cảnh và những vấn đề đặt ra » của Doãn Công Khánh, đăng trong Tạp chí Cộng sản, 14/8/2016, có câu : « Điều đáng ngạc nhiên là ngay cả đối với mặt hàng rau, củ, quả, Trung Quốc cũng xuất sang Việt Nam số lượng gấp ba lần mức mà nước này nhập từ Việt Nam. » (http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Doi-ngoai-va-hoi-nhap/2016/40377/Quan-he-thuong-mai-Viet-Trung-Boi-canh-va-nhung-van.aspx ). Đứng ở quan điểm “âm mưu làm hại kinh tế và dân Việt của Bắc Kinh” thì sự thâu mua mặt hàng tương đối tốt của Việt Nam rồi tràn ngập Việt Nam với thực phẩm độc bẩn không có gì lạ.

 

[xvii] Trên thực tế, trong tinh thần “hữu nghị”, Việt Nam để cho xe và người của Trung cộng qua cửa khẩu một cách dễ dãi, nhưng ngược lại, theo như báo Biên Phòng ngày 18/1/2017, Trung Quốc luôn luôn gây phiền nhiễu cho xe chở hàng Việt Nam ở biên giới : “các cơ quan chức năng trung ương của Trung Quốc thường xuyên kiểm tra hoặc đưa ra yêu cầu đối với hang nhập khẩu qua đường tiểu ngạch… Những đợt kiểm tra giám sát và các yêu cầu mới đưa ra thường gây gián đoạn khó khăn cho hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc, có đợt gián đoạn dài ngày gây ách tắc nhiều hàng hòa và tổn thất cho các doanh nghiệp Việt Nam.”   (http://www.bienphong.com.vn/viet-nam-tro-thanh-doi-tac-thuong-mai-lon-nhat-cua-trung-quoc-trong-khu-vuc/) Vấn đề là tại sao phía Việt Nam không làm hệt như vậy để kiểm xoát số lượng và chất lượng của các mặt hàng Trung Quốc?

 

[xviii] Xem : Đại Dương, Trung Quốc có tính chinh phục Việt Nam không?, Việt Nam daily, 16/9/2008 (http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=46017)

 

[xix] Nông dân Việt Nam, đại đa số là tiểu nông không có đất nhiều hơn ½ ha, thiếu vốn, nên cần phải bán gấp bán ngay sản phẩm để có tiền sinh sống và chuẩn bị mùa sau.  Trong khi đó, ngành nông vẫn thiếu doanh nghiệp hay hợp tác xã có thể mua gom cho người dân, kết quả là nông dân, đặc biệt ở các nơi hẻo lánh, lệ thuộc vào thương lái Tàu và dễ bị chúng lừa.

 

[xx] Xem VT News, Những kiểu mua bán lạ đời với mục đích đáng sợ của thương lái Trung Quốc, 21/9/2015 (http://vtc.vn/kinh-te/nhung-kieu-mua-ban-la-doi-voi-muc-dich-dang-so-cua-thuong-lai-trung-quoc-d223682.html) .

 

[xxi] Xem :  Vũ Minh Tiến, Thương lái Trung Quốc mua nông sản lạ đời : họ mua làm gì nhỉ?, trong Petro Times, 14/4/2917 (http://petrotimes.vn/thuong-lai-trung-quoc-mua-nong-san-la-doi-ho-mua-lam-gi-nhi-171857.html) .

 

[xxii] Theo Collins, được dẫn trong Yann Roche et Rodolphe de Koninck, Les enjeux de la déforestation au Vietnam, in Vertigo, vol.3, n°1, 4/2002 (https://vertigo.revues.org/4113) . Nhưng sau khi cho hai con số 43% và 22000 km2 hai tác giả tính làm sao mà bảo số rừng hủy hoại lên tới 23% ! Các cơ quan nhà nước công nhận con số 43% nhưng chẳng hiểu vin vào đâu mà bảo sau chiến tranh Việt Nam chỉ còn 9,5 triệu ha rừng (tức 95.000 km2) phủ 29% diện tích cả nước, trong khi nếu trừ 22.000 với 139.905 thì còn 9,7905 triệu ha (97.905 km2) bằng 27% diện tích cả nước.

 

[xxiii] Xem lá thư đó đăng trong blog Boxitvn.net, trong đó có đoạn : « Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn. Cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc khai thác rừng đầu nguồn là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được thì họ có quyền chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu nguồn bị chặt phá thì hồ thuỷ lợi sẽ không còn nguồn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu đủ, chẳng phải là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao ? Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng. » (http://boxitvn.blogspot.fr/2010/02/ve-viec-cac-tinh-cho-nguoi-nuoc-ngoai.html).

[xxiv] Theo ông Vũ Văn Tám, thứ trưởng bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, “trong hai năm hơn 4000 tàu cá, hơn 2300 ngư dân Việt thương vong, mất tích trên biển”. Xem Viet Times, 8/5/2016 ( http://viettimes.vn/2-nam-hon-4000-tau-ca-hon-2300-ngu-dan-viet-thuong-vong-mat-tich-tren-bien-54638.html) . Theo ông Đặng Xương Hùng, cựu nhân viên ngoại giao xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ, sở dĩ nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục khuyến khích ngư dân ra câu cá ở Hoàng Sa nhưng không dám phản đối Trung Quốc mỗi khi họ tấn công ngư dân Việt Nam, là tại vì « người cộng sản Việt Nam rất thí quân…và vấn đề thí quân đó đang xảy ra với ngư dân Việt Nam. Tức sử dụng ngư dân để nói lên rằng Hoàng Sa Trường Sa vẫn là của Việt Nam. Tuyên bố đó ra với bên ngoài để giành được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, còn ngư dân thì chứ thiệt thòi, không được bảo vệ từ phía quân đội Việt Nam »… « Tuy nhiên việc Việt Nam có thực sự muốn thoát hẳn khỏi Trung Quốc hay không, thì đó là một vấn đề mà tôi muốn đặt câu hỏi. Tôi cũng thắc mắc về ý đồ Việt Nam có muốn thoát khỏi Trung Quốc hay không. » Xem : Gia Minh, Tại sao Việt Nam không thể bảo vệ ngư dân trong vùng biển chủ quyền, RFA, 14/10/2015 (http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/fishm-plight-n-vn-foreign-policy-10142015060627.html).

[xxv] Xem : Hoàng Nguyễn, Nước độc âm ĩ giết sông hồ Hà Nội, Pháp luật Việt Nam, 8/10/2016 (http://baophapluat.vn/do-thi/nuoc-doc-am-i-giet-song-ho-ha-noi-298611.html ).

 

[xxvi] Xem : Trần Ngọc, Sống với nguồn ô nhiễm độc hại, Pháp luật thành phố HCM, 6/7/2015 (http://plo.vn/xa-hoi/khoe-360/song-voi-nguon-nuoc-o-nhiem-doc-hai-566907.html) .

 

[xxvii] Đấy là số dự án được đăng ký, không kể những công ty của Trung Quốc do người Việt đứng tên, những công ty của Việt Nam hay nước ngoài khác do Trung Quốc mua lại, cũng như không kể các dự án của Việt Nam với vốn vay của Trung Quốc. Về sự phân phối các dự án của Trung Quốc năm 1016, xem bài báo của Phương Nguyễn trong VNbiz, 10/4/2017( http://vietnambiz.vn/trung-quoc-dang-ky-rot-hon-11-ty-usd-vao-cac-du-an-tai-viet-nam-18637.html ). Và về những vấn đề liên quan đến sự đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam, xem : Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam sau hơn 20 năm nhìn lại, Trường đại học xã hội và nhân văn, Sàigòn (http://dongphuong.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=af61ca6e-232a-41a3-908b-ad0af67aecd1).

 

[xxviii] Xem : Phương Linh, Làm ăn vơi Trung Quốc tạo thói quen cẩu thả cho kinh tế Việt Nam, trong VNExpress, 3/7/2014 ( http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/lam-an-voi-trung-quoc-tao-thoi-quen-cau-tha-cho-kinh-te-viet-nam-3012778.html) . Ngoài đường sắt CátLinh – Hà Đông, Việt Nam còn có vấn đề gay go  với nhà thầu Trung Quốc trong việc thi công nhiều dự án lớn khác.

 

[xxix] Xem : Tây Giang – Lan Anh, Tràn lan lao động « chui » Trung Quốc, trong Tuổi trẻ, 27/3/2014 (http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20140327/tran-lan-lao-dong-chui-trung-quoc/600064.html).

 

[xxx] Xem : Mạnh Nguyễn, Máy móc, thiết bị nhiều Trung Quốc: biết là dở, sao vẫn ồ ạt nhập?, trong CafeF, 22/9/2016 (http://cafef.vn/may-moc-thiet-bi-nhieu-trung-quoc-biet-la-do-sao-van-o-at-nhap-20160922142629203.chn) .

 

[xxxi] Xem : Bạch Dương,  Vì sao hai doanh nghiệp phân đạm tỷ USD rơi vào cơn bĩ cực?, trong VN Economy, 15/9/2016 ( http://vneconomy.vn/doanh-nhan/vi-sao-hai-doanh-nghiep-phan-dam-ty-usd-roi-vao-con-bi-cuc-20160915014756338.htm) .

 

[xxxii] Xem: Anh Thư, Rót 32.000 tỷ vào bauxit, alumin Tây Nguyên, kết quả giờ ra sao?, 25/2/2017, trong Bauxite Việt Nam (http://www.boxitvn.net/bai/47070) .

 

[xxxiii] Xem: Vĩnh Long, 3 năm, gần 3000 tỷ lỗ theo tổ hợp bôxit nhôm Lâm Đồng, 15/3/2017, trong Trithức VN, 14/4/2017 (http://trithucvn.net/kinh-te/3-nam-gan-3-700-ty-lo-theo-to-hop-bo-xit-nhom-lam-dong.html).

 

[xxxiv] Xem: Mạnh Quân, Những hồ chứa bất an, 20/6/2016, trong Dân trí (http://dantri.com.vn/blog/nhung-ho-chua-bat-an-20160620051640836.htm) . Tác giả cho biết tháng 10/2014 đã có một sự cố bùn đỏ thoát ra ngoài nhà máy Tân Rai vùi lắp 4000 m2 ao cá vườn chè của dân địa phương. Ngoài ra, cũng đã có một sự cố bùn đỏ tràn ra ngoài nhưng của nhà máy titan tại Bình Thuận, cũng do Trung Quốc khai thác. Nguyên do đều là sự cẩu thả của nhà thầu Tàu và thiết bị lạc hậu của Tàu.

 

[xxxv] Xem: VOA tiếng Việt 22/9/2015 (https://www.facebook.com/VOATiengViet/posts/10153146386403008) .

 

[xxxvi] Vụ nhà máy Tisco cũng lại là một chuyện đầu tư tắc trách của quan chức cộng sản, luôn luôn mắc mưu nhà thầu Tàu. Lũ này chuyên đấu giá thật hạ, ký hợp đồng xong chúng kiếm cớ đẩy cao giá đầu tư lên tới gấp hai gấp ba. Trong trường hợp Tisco giá ban đầu năm 2007 là 3843 tỷ đồng (160 triệu USD), sang 2008 nhà thầu đòi tăng lên 8104 triệu đồng (356 triệu USD), chủ đầu tư trả tới 4500 tỷ đồng (198 triệu USD) năm 2012 thì hết tiền không vay được nữa, thế là nhà thầu bỏ ngang xương, để mặc cho thiết bị đã chi gỉ tại chỗ. Tisco đang đợi nhà nước giải quyết hộ, đến nay vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Xem: Cầm Văn Kình – Chu Hà, Nhà máy 8100 tỷ thành đống sứt gỉ, 16/11/2015, trong Tuổi trẻ (http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20151116/nha-may-8100-ti-thanh-dong-sat-gi/1003558.html) .

 

[xxxvii] Xem: Nguyễn Hữu Quý, Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?, 29/4/2017, trong Biển đông chủ quyền (http://quangda.de/bien-dong-chu-quyen/bien-gioi-lanh-tho/5918-trung-quoc-dang-co-am-muu-gi-o-ha-tinh-va-quang-tri.html)

 

[xxxviii] Xem: Trần Xuân, Formosa Hà Tĩnh chuyển chất thải độc hại từ Đài Loan vào Việt Nam đổ?, trong blog Người Kỳ Anh (http://nguoikyanh.blogspot.fr/2016/07/formosa-chuyen-chat-thai-doc-hai-tu-dai-loan-vao-viet-nam-do.html) .

 

[xxxix] Về dự án Cà Ná, xem : Tuấn Hưng, Dự án thép Cà Ná, tập đoàn Hoa Sen có tránh nổi những rủi ro khôn lường này?, trong Việt Nam thời báo (http://nguoikyanh.blogspot.fr/2016/07/formosa-chuyen-chat-thai-doc-hai-tu-dai-loan-vao-viet-nam-do.html) và: Lê Anh Hùng, Hiểm họa Trung Quốc trong dự án thép Cà Ná, 20/9/2016, trong VOA (http://www.voatiengviet.com/a/hiem-hoa-tq-trong-du-an-thep-ca-na/3519187.html) .

 

[xl] Xem : Mai Nguyên, Bị tẩy chay ở Trung Quốc, nhà máy giấy Lee § Man tìm cách xâm nhập Việt Nam, đầu độc nguồn nước đồng bằng sông Cửu Long, trong Thanh niên Việt Nam (http://www.thanhnientphcm.com/2017/04/bi-tay-chay-o-trung-quoc-nha-may-giay-lee-man-tim-cach-xam-nhap-viet-nam-dau-doc-nguon-nuoc-dong-bang-song-cuu-long.html) .

 

[xli] Hiện có 2 phương pháp tẩy trắng giấy : 1° phương pháp bình thường với khí clo, bioxit clo, hypoclorit natri, peroxit hydro ; cách tẩy bằng xút, quá hại môi trường đã bị bỏ ở Âu Mỹ, tuy vẫn phải dùng tới xút để khử chất clorolignin ở giấy; 2° phương pháp mới hơn, với oxy hoặc hơn nữa với ozon.

[xlii] Xem: Hồ Hùng, Người dân run rẩy vì nhà máy giấy lớn bậc nhất thế giới sắp vận hành ở miền Tây , 5/7/2016, trong Soha News (http://soha.vn/nguoi-dan-run-ray-vi-nha-may-giay-lon-bac-nhat-the-gioi-sap-van-hanh-o-mien-tay-20160705105006814.htm) .

 

[xliii] Về nhà máy Đại Dương, xem : Phương Dung, Nguy cơ gây ô nhiễm sông Tiền, xem xét từ chối dự án nhà máy giấy gần 5000 tỷ đông, 11/4/2017, trong Dân Trí (http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nguy-co-gay-o-nhiem-song-tien-xem-xet-tu-choi-du-an-nha-may-giay-gan-5000-ty-dong-20170411093805725.htm) .

 

[xliv] Để có ý niệm về tình hình năng lượng Việt Nam, xem : Nguyên Phạm, Tình hình năng lượng Việt Nam, 10/11/2016, trong Năng lượng hạt nhân (http://www.nangluonghatnhan.com/single-post/2016/11/11/T%C3%ACnh-h%C3%ACnh-n%C4%83ng-l%C6%B0%E1%BB%A3ng-Vi%E1%BB%87t-Nam) .

 

[xlv] Về những nhà máy nhiệt điện ở VN, xem : Vân Trường – Anh Đức, 14 nhà máy nhiệt điện vây đồng bằng sông Cửu Long, 3/10/2016, trong Tuổi trẻ, (http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20161003/14-nha-may-nhiet-dien-vay-dong-bang-song-cuu-long/1181694.html) .

 

[xlvi] Xem : Trường Sơn – Đình Tuyến, Nhiều sai phạm trong vận hành dự án nhiệt điện Duyên Hải, 2/10/2016, trong Thanh Niên (http://thanhnien.vn/thoi-su/nhieu-sai-pham-trong-van-hanh-du-an-nhiet-dien-duyen-hai-750550.html).

 

[xlvii] Xem một loạt livestream của Huỳnh Quốc Huy trên You tube về đề tài này, ví như : https://www.youtube.com/watch?v=fP2Gbg8UHc4 .

 

[xlviii] Con số hơn 2,5 triệu người bỏ VN sang nước ngoài sinh sống từ 1990 đến 2015 là do Vụ kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc (UN-DESA) cung cấp. Xem: Hồ Mai, Mỗi năm gần 100 nghìn người di cư ra nước ngoài, 24/7/2016, trong Vietnam finance  (http://vietnamfinance.vn/tai-chinh-quoc-te/moi-nam-gan-100-nghin-nguoi-viet-di-cu-ra-nuoc-ngoai-20160722095009241.htm) . Vì không cấp nổi việc làm cho công dân, tà quyền cộng sản Việt Nam khuyến khích công dân đi kiếm ăn ở nước ngoài dưới cái từ ngữ hạ nhân phẩm “xuất khẩu lao động” làm như con người chỉ là một món hàng buôn bán. Số 2,5 triệu dân di cư kia là số chính thức, không kể đến những người đi “chui” và ở lậu. Theo dư luận thì số người ra đi lớn gấp hai.

 

[xlix] Xem: Hà Quyên, Hơn 300 người Việt chết mỗi ngày vì ung thư, 5/2/2017, trong Zing.vn (http://news.zing.vn/hon-300-nguoi-viet-chet-moi-ngay-vi-ung-thu-post718306.html) .

 

[l] Về vấn đề công dân Trung Quốc tại Việt Nam xem: Thực trạng lao động Trung Quốc tại Việt Nam, 12/8/2011, trong Báo không lề  (https://baokhongle.wordpress.com/2011/08/12/th%E1%BB%B1c-tr%E1%BA%A1ng-lao-d%E1%BB%99ng-trung-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%A1i-vi%E1%BB%87t-nam) . Bài báo cho hay năm 2009 có 35.000 dân lao động Trung Quốc và 800.000 người Hoa (dân VN?) sống tại Việt Nam. Ngoài bài báo này không thấy tài liệu khác nói về số dân Trung cộng ở VN. Theo thông tin nhà nước hiện ở VN có hơn 1300 công ty Trung Quốc đăng ký, một con số nhỏ so với thực tế vì nó không kể đến vô số công ty đăng ký là của người Việt hay nước khác nhưng sau đó đã được mua lại bởi người Trung Quốc; theo dư luận số công ty của Trung cộng ở VN phải ít nhất là 5000. Nếu tính trung bình mỗi công ty TQ nhập khoảng 1000 công nhân nước họ thì ở VN đã có ít nhất 1,3 triệu người dân Trung cộng.

 

[li] Xem: Việt Nam phản đối bài viết trên mạng Trung Quốc, 5/9/2008, trong BBC Vietnamese.com (http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080905_viet_protest_china.shtml).

 

[lii] Xem: Nguyễn Văn Tuấn, Liệu quân phục Việt Nam có made in China ?  18/7/2011, trong Vietinfo (http://m.vietinfo.eu/tu-lieu/lieu-quan-phuc-viet-nam-co-made-in-china.html).

 

[liii] Theo Vũ Quang Việt, cựu vụ trưởng vụ kế hoạch của Liên hiệp quốc, nợ công thực sự của Việt Nam là 431 tỷ USD, một con số bao gồm nợ nhà nước và nợ của các công ty do nhà nước bảo lãnh (324 tỷ USD), tương đương với 219% GDP. Xem: Lê Dung/STBN, Không phải 62% GDP mà nợ công VN đang là 210% GDP, in Việt Nam thời báo, 20/2/2017 ( http://www.ijavn.org/2017/02/vntb-khong-phai-62-gdp-ma-no-cong-viet.html).

 

[liv] Một bài báo đăng trong blog của Hiếu Trương liệt kê tài sản tham nhũng của cán bộ cộng sản vào năm 2005. Xem: NT, Danh sách trên 300 cán bộ cộng sản có tài sản vài trăm triệu mỹ kim  (https://vivi099.wordpress.com/2015/11/01/danh-sach-tren-300-can-bo-cong-san-co-tai-san-vai-tram-trieu-my-kim/ ). Tính theo tài liệu này thì hồi đó số tiền tham nhũng của các quan chức đã lên đến khoảng 300 tỷ USD. Bây giờ, hơn 10 năm sau, con số đó phải nhân với 2,3. Riêng sự biển thủ dầu hỏa tại công ty dầu khí lên tới 36 tỷ/năm, trong 10 năm là 360 tỷ, theo lời tố cáo của Trịnh Xuân Thanh trong You tube: (https://www.youtube.com/watch?v=mcvgXfaOdho) .

[1] Người đầu tiên nêu ra việc giả mạo này là một tác giả Đài Loan trong một cuốn sách có nhan đề là « Hồ Chí Minh » viết bằng tiếng Nhật năm 1946, và điều ông nói được xác định bởi một tờ báo của đảng CS Trung quốc  tại Cương Sơn năm 1949 ; nhưng sự kiện được ếm nhẹm cho tới đến năm 2008, khi Hồ Tuấn Hùng, một học giả cũng người Đài Loan cho ra quyển « Hồ Chí Minh sinh bình khảo » trong đó ông dẫn chứng lai lịch Tàu Đài Loan, gốc Hẹ, của Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương. Nhưng phaỉ tới 2013, khi sách này được dịch ra việt ngữ bởi Thái Văn, vấn đề Hồ Chí Minh giả mới được nhiều người Việt Nam đặt ra, tranh luận hay thêm chứng cứ. Có nhiều bài đứng đắn trên Mạng, để có một ý niệm rõ ràng xem : Trần Việt Bắc, Hồ Chí Minh : Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (http://www.geocities.ws/xoathantuong/tvb_hcmdongchi.htm).

 

[1] Xem : Thụy khuê, Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản, trong Vinasia.org .

 

[1] Xạo ở hai điểm : Thứ nhất về phần tuyên ngôn thì Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập trước rồi (Bảo Đại ngày 12/3/1945,Hồ Chí Minh ngày 2/9/1945 ; thứ hai về sự độc lập thì Hồ Chí Minh không hề giành nổi độc lập cho Việt Nam từ tay chính phủ bảo hộ Pháp, mặc dầu ông ta chạy chọt đủ cách với chính khách Pháp khi sang Pháp vào tháng 6-9/1946 ; ngược lại qua thỏa ước ký với Bảo Đại ngày 5/6/1948 Pháp rõ ràng « long trọng thừa nhận sự độc lập của Việt Nam và để cho Việt Nam tự do thực hiện sự thống nhất của mình ».

 

[1] Xem : Đặng Chí Hùng, Bằng chứng bán nước toàn diện của đảng cộng sản VN, trong blog Sinicization of Indochina ( http://namviet.net/blog-hanhoa/?p=657#.WNaot7g8acM) : Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” – số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao như sau:“Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau để giữ tình đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như sau:

Điều 1: Chính phủ Trung Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.

Điều 3: Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên ban theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết (Phụ lục đính kèm).

 

Điều 4: Trước đảng và chính phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực thi kể từ ngày hôm nay 12/06/1953.

 

Điều 5: Chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh (Phụ lục đính kèm).

 

….Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”

 

[1] Tháng hai 1979, để trừng trị Việt Nam dám đánh chiếm Căm Bốt, Đặng Tiểu Bình cho lùa hơn 600 000 đội quân xâm nhập Việt Nam, tàn phá các tỉnh biên giới, gặp ai là chém giết không ngừa người già trẻ nít, nhưng nhờ sự phản kháng kịch liệt của binh lính và dân quân tự vệ, quân Tàu phải rút lui tháng sau, nhưng sau đó lại tiếp tục gây hấn và chiến tranh giữa hai bên kéo dài tới tận 1989 ; chính trong thời gian này, năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng đảo Gạc Ma ở Trường Sa ; nhưng vì từ năm 1987, thấy Nga Sô có cơ nguy biến với chính sách cởi mở của Gorbatchev, nhóm cầm quyền Hà Nội đã có tâm đầu hàng Trung cộng nên cấm ngặt binh sĩ ở Gạc Ma chống trả, khiến họ chết một cách tức tưởi lãng xẹt. Về sự tàn bạo của chiến tranh Việt-Trung dưới mắt của chính người Hoa, xem : Tù binh chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc 1979-1989, trong Phan Ba’s Blog, 24/2/2017 (https://phanba.wordpress.com/2017/02/24/tu-binh-chien-tranh-viet-nam-trung-quoc-1979-1989/) .

 

[1] Xem bài báo của Kerby Anderson Nguyễn đăng lại trong Văn thơ Lạc Việt (http://vantholacviet.com/tuong-cong-san-viet-nam-ha-thanh-chau-da-xin-ty-nan-chinh-tri-tai-hoa-ky-va-tiet-lo-am-muu-ban-nuoc/ ) và trong trang web của Việt Nam cộng hòa hải ngoại : http://www.vnchhiepdinhparis1973.com/SUB_TaiLieuLichSu/TaiLieuLS1307072304.shtml . Ngoài bài báo của ông K.A Nguyễn không thấy ai khác nói về tướng Hà Thanh Châu, nhưng mặc dầu trên Mạng thường được tuôn ra nhiều tin đồn thất thiệt, những điều được tác giả nêu ra coi như khả tín vì trùng hợp với những tin xuất từ nhiều nơi khác. Năm 2014, hành động bán nước của tập đoàn cầm quyền Hà Nội được hai tờ báo Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu thời báo của Trung Quốc công nhận, khiến cho dư luận ở Việt Nam xôn xao, nhưng nhà nước cộng sản không chịu công bố mật ước, chỉ cho ban Tuyên giáo phủ nhận và giải thích dòng dài về nội dung của thỏa ước. Song hành xử ngang ngược của Trung cộng tại Việt Nam cùng những nhượng bộ hèn mạt đối với chúng trên thực tế của nhóm cầm quyền Hà nội không thể không minh định cho tính xác thực của tin tức trên.

 

[1] Diện tích mất đi được ước chừng từ 700 đến15000 km2. Xem bài của Tèo Ngu Khìn, Hơn 15 000km2 đất của VN mất vào tay ai, trong Dân làm báo ( http://danlambaovn.blogspot.com/2016/10/hon-15000-km2-at-cua-viet-nam-mat-vao.html)  và của Trương Nhân Tuấn, Việt Nam có mất đất… ,trong blog Những vấn đề Việt Nam (http://nhantuantruong.blogspot.fr/2013/11/viet-nam-co-mat-at-mat-bien-qua-hai.html) . Một việc đơn giản để biết về con số đất mất đi là so sánh diện tích toàn thể Việt Nam được các nhà địa lý hay cơ quan địa lý ghi nhận trước và sau 2000. Kẹt một cái là các sách báo không đồng nhất về con số, và ngay trong cùng một bài các tác giả đứng đắn nhất cũng đưa ra nhiều con số mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, có thể có một ý niệm về số đất mất đi qua hai con số trước sau 2000 nêu ra trong cùng một bài báo cáo về rừng của một nhóm nhà nghiên cứu địa lý (Phạm Thu Thủy, Moira Moelino vv., Bối cảnh REDD+ ở Việt Nam…, Cifor, Bogor Barat, 2012). Những tác giả này công nhận con số 14,3 triệu ha rừng tương đương với 43% diện tích cả nước cho năm 1943 của các nhà địa lý châu Âu, tức tổng diện tích năm đó là 332.679 km2, và con số năm 2010 của FAO theo đó 13,797 triệu ha bao phủ 44% diện tích cả nước, tức tổng diện tích năm đó là 313.568 km2. Số chênh lệch giữa hai tổng diện tích = 19.111 km2 có thể được coi như diện tích bán cho Tàu.

 

[1]  Khi so sánh các bản đồ, Vũ Hữu san, trong bài Bản đồ phân chia vịnh Bắc Việt, cho thấy Việt Nam chỉ còn 45% vịnh thay vì 53% như chính thức được công bố (http://vuhuusan05.tripod.com/bandophanchia.htm ). Xem thêm: Đại Dương, Ai đang mãi quốc cầu vinh ?, trong Vietnam daily, 23/4/2002 (http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=7775 .

 

[1] Có thể bản đồ đó đã bị nhà nước thu hồi, nhưng Trung cộng có chụp lại nó trong tài liệu tuyên truyền của Bắc Kinh. Đối với quốc tế, Trung cộng luôn luôn khẳng định rằng hai quần đảo HSTS thuộc về lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa, và đưa ra một số cứ liệu lịch sử gượng gạo, nhưng trong một thông báo của nhà cầm quyền Bắc Kinh đọc trên đài truyền hình « Tiếng nói nhân dân Trung Hoa » phát thanh bằng tiếng Việt, tôi thấy lần đầu tiên Trung Quốc công khai tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam nhưng đã được Cộng sản Việt Nam nhượng cho Trung Quốc : «… Chúng tôi đồng ý là Hoàng Sa và Trường Sa và bờ biển thuộc Việt Nam, nhưng cộng sản Việt Nam đã ký công hàm do thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 7/6/1958. Trung Quốc có đầy đủ những chứng cứ không thể chối cãi trên vùng biển, và Trung Quốc sẽ được khai thác dầu khí của Việt Nam, cộng sản Việt Nam sẽ không thể làm gì được… » (https://www.youtube.com/watch?v=RCLlsvpRNhg) .

 

[1]  Bằng chứng, hình của cờ Đoàn thanh niên này trong Wikipedia pháp ngữ, mục Drapeau de la république populaire de Chine. Trong một thời gian tỉnh Phúc Kiến cũng có một lá cờ sao vàng nhưng khác ở chỗ nền của nó chia làm hai, nửa xanh, nửa đỏ (xem trên mạng mục : cờ của Phúc Kiến, tiếng anh), và có thể đó là lá cờ toán quân Việt Minh cầm khi tiến vào Hà Nội năm 1945, theo lời tả của một số nhân chứng, nhưng chắc chắn đấy là cờ (với phần nền xanh nhạt hơn) được Mặt trận giải phóng miền Nam chọn làm cờ hiệu sau này. Ngoảnh đi ngoảnh lại đảng cộng sản Việt nam không ngừng loay hoay với cái gốc gác Tàu cộng của nó.

 

[1] Xem trong RFA ngày 12/1/2017, Cưỡng chế tượng Trần Hưng Đạo tại tư gia là trái luật : http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/will-statue-inside-private-property-be-evicted-illegally-ha-01122017080011.html/.

 

[1] Theo thống kê của « Biên phòng » ngày 18/1/2017, thì trong năm 2016 tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung là 70,6 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 21,8 tỷ và nhập khẩu 49,9 tỷ. Đặc biệt là số do Trung Quốc và Việt Nam đưa ra rất khác nhau. Như về năm 2015, theo « Bộ công thương Việt Nam » (báo ngày 9/11/2016), thống kê của hải quan VN cho biết tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung là 66,6 tỷ USD với 17,1 tỷ xuất khẩu và 49,5 tỷ nhập khẩu ; nhưng phía Trung Quốc đưa ra con số tổng kim ngạch = 95,8 tỷ USD với 29,67 tỷ nhập khẩu (từ VN) và 66,14 xuất khẩu (từ TQ) – http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/ca_tbd/nr040818094447/ns150401025706  – không hiểu số chênh lệch những 29,2 tỷ USD là do đâu ? do sự buôn lậu hay biển thủ tại Việt Nam ?

 

[1] Xem : Brantly Womack, Vietnam and China in an era of uncertainty, The Asia Pacific journal, 9/2009, do Ngô Bắc dịch, trong http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacWomackBatDinhKinhTe.htm .

 

[1] Xem bài báo trên.

 

[1] Theo giá thị trường năm 2016, than Nam Dương rẻ nhất : 45,3 USD/1 tấn, than Úc : 53 USD/1 tấn, than Nga : 63 USD. Không hiểu vì lý do gì Việt Nam đi nhập thêm 1,5 triệu tấn than Tàu với giá cứa cổ là 85 USD/1 tấn. Xem : Nguyễn Tuyền, Than nhập từ Trung Quốc về Việt Nam giá đắt nhất thế giới, trong Dân trí, 16/10/2016 (http://dantri.com.vn/su-kien/than-nhap-tu-trung-quoc-ve-viet-nam-gia-dat-nhat-the-gioi-20161016063417389.htm) .

 

[1] Trong bài « Quan hệ thương mại Việt Trung, bối cảnh và những vấn đề đặt ra » của Doãn Công Khánh, đăng trong Tạp chí Cộng sản, 14/8/2016, có câu : « Điều đáng ngạc nhiên là ngay cả đối với mặt hàng rau, củ, quả, Trung Quốc cũng xuất sang Việt Nam số lượng gấp ba lần mức mà nước này nhập từ Việt Nam. » (http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Doi-ngoai-va-hoi-nhap/2016/40377/Quan-he-thuong-mai-Viet-Trung-Boi-canh-va-nhung-van.aspx ). Đứng ở quan điểm “âm mưu làm hại kinh tế và dân Việt của Bắc Kinh” thì sự thâu mua mặt hàng tương đối tốt của Việt Nam rồi tràn ngập Việt Nam với thực phẩm độc bẩn không có gì lạ.

 

[1] Trên thực tế, trong tinh thần “hữu nghị”, Việt Nam để cho xe và người của Trung cộng qua cửa khẩu một cách dễ dãi, nhưng ngược lại, theo như báo Biên Phòng ngày 18/1/2017, Trung Quốc luôn luôn gây phiền nhiễu cho xe chở hàng Việt Nam ở biên giới : “các cơ quan chức năng trung ương của Trung Quốc thường xuyên kiểm tra hoặc đưa ra yêu cầu đối với hang nhập khẩu qua đường tiểu ngạch… Những đợt kiểm tra giám sát và các yêu cầu mới đưa ra thường gây gián đoạn khó khăn cho hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc, có đợt gián đoạn dài ngày gây ách tắc nhiều hàng hòa và tổn thất cho các doanh nghiệp Việt Nam.”   (http://www.bienphong.com.vn/viet-nam-tro-thanh-doi-tac-thuong-mai-lon-nhat-cua-trung-quoc-trong-khu-vuc/) Vấn đề là tại sao phía Việt Nam không làm hệt như vậy để kiểm xoát số lượng và chất lượng của các mặt hàng Trung Quốc?

 

[1] Xem : Đại Dương, Trung Quốc có tính chinh phục Việt Nam không?, Việt Nam daily, 16/9/2008 (http://www.vietnamdaily.com/index.php?c=article&p=46017)

 

[1] Nông dân Việt Nam, đại đa số là tiểu nông không có đất nhiều hơn ½ ha, thiếu vốn, nên cần phải bán gấp bán ngay sản phẩm để có tiền sinh sống và chuẩn bị mùa sau.  Trong khi đó, ngành nông vẫn thiếu doanh nghiệp hay hợp tác xã có thể mua gom cho người dân, kết quả là nông dân, đặc biệt ở các nơi hẻo lánh, lệ thuộc vào thương lái Tàu và dễ bị chúng lừa.

 

[1] Xem VT News, Những kiểu mua bán lạ đời với mục đích đáng sợ của thương lái Trung Quốc, 21/9/2015 (http://vtc.vn/kinh-te/nhung-kieu-mua-ban-la-doi-voi-muc-dich-dang-so-cua-thuong-lai-trung-quoc-d223682.html) .

 

[1] Xem :  Vũ Minh Tiến, Thương lái Trung Quốc mua nông sản lạ đời : họ mua làm gì nhỉ?, trong Petro Times, 14/4/2917 (http://petrotimes.vn/thuong-lai-trung-quoc-mua-nong-san-la-doi-ho-mua-lam-gi-nhi-171857.html) .

 

[1] Theo Collins, được dẫn trong Yann Roche et Rodolphe de Koninck, Les enjeux de la déforestation au Vietnam, in Vertigo, vol.3, n°1, 4/2002 (https://vertigo.revues.org/4113) . Nhưng sau khi cho hai con số 43% và 22000 km2 hai tác giả tính làm sao mà bảo số rừng hủy hoại lên tới 23% ! Các cơ quan nhà nước công nhận con số 43% nhưng chẳng hiểu vin vào đâu mà bảo sau chiến tranh Việt Nam chỉ còn 9,5 triệu ha rừng (tức 95.000 km2) phủ 29% diện tích cả nước, trong khi nếu trừ 22.000 với 139.905 thì còn 9,7905 triệu ha (97.905 km2) bằng 27% diện tích cả nước.

 

[1] Xem lá thư đó đăng trong blog Boxitvn.net, trong đó có đoạn : « Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn. Cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc khai thác rừng đầu nguồn là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được thì họ có quyền chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu nguồn bị chặt phá thì hồ thuỷ lợi sẽ không còn nguồn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu đủ, chẳng phải là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao ? Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng. » (http://boxitvn.blogspot.fr/2010/02/ve-viec-cac-tinh-cho-nguoi-nuoc-ngoai.html).

[1] Theo ông Vũ Văn Tám, thứ trưởng bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, “trong hai năm hơn 4000 tàu cá, hơn 2300 ngư dân Việt thương vong, mất tích trên biển”. Xem Viet Times, 8/5/2016 ( http://viettimes.vn/2-nam-hon-4000-tau-ca-hon-2300-ngu-dan-viet-thuong-vong-mat-tich-tren-bien-54638.html) . Theo ông Đặng Xương Hùng, cựu nhân viên ngoại giao xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ, sở dĩ nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục khuyến khích ngư dân ra câu cá ở Hoàng Sa nhưng không dám phản đối Trung Quốc mỗi khi họ tấn công ngư dân Việt Nam, là tại vì « người cộng sản Việt Nam rất thí quân…và vấn đề thí quân đó đang xảy ra với ngư dân Việt Nam. Tức sử dụng ngư dân để nói lên rằng Hoàng Sa Trường Sa vẫn là của Việt Nam. Tuyên bố đó ra với bên ngoài để giành được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, còn ngư dân thì chứ thiệt thòi, không được bảo vệ từ phía quân đội Việt Nam »… « Tuy nhiên việc Việt Nam có thực sự muốn thoát hẳn khỏi Trung Quốc hay không, thì đó là một vấn đề mà tôi muốn đặt câu hỏi. Tôi cũng thắc mắc về ý đồ Việt Nam có muốn thoát khỏi Trung Quốc hay không. » Xem : Gia Minh, Tại sao Việt Nam không thể bảo vệ ngư dân trong vùng biển chủ quyền, RFA, 14/10/2015 (http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/fishm-plight-n-vn-foreign-policy-10142015060627.html).

[1] Xem : Hoàng Nguyễn, Nước độc âm ĩ giết sông hồ Hà Nội, Pháp luật Việt Nam, 8/10/2016 (http://baophapluat.vn/do-thi/nuoc-doc-am-i-giet-song-ho-ha-noi-298611.html ).

 

[1] Xem : Trần Ngọc, Sống với nguồn ô nhiễm độc hại, Pháp luật thành phố HCM, 6/7/2015 (http://plo.vn/xa-hoi/khoe-360/song-voi-nguon-nuoc-o-nhiem-doc-hai-566907.html) .

 

[1] Đấy là số dự án được đăng ký, không kể những công ty của Trung Quốc do người Việt đứng tên, những công ty của Việt Nam hay nước ngoài khác do Trung Quốc mua lại, cũng như không kể các dự án của Việt Nam với vốn vay của Trung Quốc. Về sự phân phối các dự án của Trung Quốc năm 1016, xem bài báo của Phương Nguyễn trong VNbiz, 10/4/2017( http://vietnambiz.vn/trung-quoc-dang-ky-rot-hon-11-ty-usd-vao-cac-du-an-tai-viet-nam-18637.html ). Và về những vấn đề liên quan đến sự đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam, xem : Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam sau hơn 20 năm nhìn lại, Trường đại học xã hội và nhân văn, Sàigòn (http://dongphuong.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=af61ca6e-232a-41a3-908b-ad0af67aecd1).

 

[1] Xem : Phương Linh, Làm ăn vơi Trung Quốc tạo thói quen cẩu thả cho kinh tế Việt Nam, trong VNExpress, 3/7/2014 ( http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/lam-an-voi-trung-quoc-tao-thoi-quen-cau-tha-cho-kinh-te-viet-nam-3012778.html) . Ngoài đường sắt CátLinh – Hà Đông, Việt Nam còn có vấn đề gay go  với nhà thầu Trung Quốc trong việc thi công nhiều dự án lớn khác.

 

[1] Xem : Tây Giang – Lan Anh, Tràn lan lao động « chui » Trung Quốc, trong Tuổi trẻ, 27/3/2014 (http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20140327/tran-lan-lao-dong-chui-trung-quoc/600064.html).

 

[1] Xem : Mạnh Nguyễn, Máy móc, thiết bị nhiều Trung Quốc: biết là dở, sao vẫn ồ ạt nhập?, trong CafeF, 22/9/2016 (http://cafef.vn/may-moc-thiet-bi-nhieu-trung-quoc-biet-la-do-sao-van-o-at-nhap-20160922142629203.chn) .

 

[1] Xem : Bạch Dương,  Vì sao hai doanh nghiệp phân đạm tỷ USD rơi vào cơn bĩ cực?, trong VN Economy, 15/9/2016 ( http://vneconomy.vn/doanh-nhan/vi-sao-hai-doanh-nghiep-phan-dam-ty-usd-roi-vao-con-bi-cuc-20160915014756338.htm) .

 

[1] Xem: Anh Thư, Rót 32.000 tỷ vào bauxit, alumin Tây Nguyên, kết quả giờ ra sao?, 25/2/2017, trong Bauxite Việt Nam (http://www.boxitvn.net/bai/47070) .

 

[1] Xem: Vĩnh Long, 3 năm, gần 3000 tỷ lỗ theo tổ hợp bôxit nhôm Lâm Đồng, 15/3/2017, trong Trithức VN, 14/4/2017 (http://trithucvn.net/kinh-te/3-nam-gan-3-700-ty-lo-theo-to-hop-bo-xit-nhom-lam-dong.html).

 

[1] Xem: Mạnh Quân, Những hồ chứa bất an, 20/6/2016, trong Dân trí (http://dantri.com.vn/blog/nhung-ho-chua-bat-an-20160620051640836.htm) . Tác giả cho biết tháng 10/2014 đã có một sự cố bùn đỏ thoát ra ngoài nhà máy Tân Rai vùi lắp 4000 m2 ao cá vườn chè của dân địa phương. Ngoài ra, cũng đã có một sự cố bùn đỏ tràn ra ngoài nhưng của nhà máy titan tại Bình Thuận, cũng do Trung Quốc khai thác. Nguyên do đều là sự cẩu thả của nhà thầu Tàu và thiết bị lạc hậu của Tàu.

 

[1] Xem: VOA tiếng Việt 22/9/2015 (https://www.facebook.com/VOATiengViet/posts/10153146386403008) .

 

[1] Vụ nhà máy Tisco cũng lại là một chuyện đầu tư tắc trách của quan chức cộng sản, luôn luôn mắc mưu nhà thầu Tàu. Lũ này chuyên đấu giá thật hạ, ký hợp đồng xong chúng kiếm cớ đẩy cao giá đầu tư lên tới gấp hai gấp ba. Trong trường hợp Tisco giá ban đầu năm 2007 là 3843 tỷ đồng (160 triệu USD), sang 2008 nhà thầu đòi tăng lên 8104 triệu đồng (356 triệu USD), chủ đầu tư trả tới 4500 tỷ đồng (198 triệu USD) năm 2012 thì hết tiền không vay được nữa, thế là nhà thầu bỏ ngang xương, để mặc cho thiết bị đã chi gỉ tại chỗ. Tisco đang đợi nhà nước giải quyết hộ, đến nay vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Xem: Cầm Văn Kình – Chu Hà, Nhà máy 8100 tỷ thành đống sứt gỉ, 16/11/2015, trong Tuổi trẻ (http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20151116/nha-may-8100-ti-thanh-dong-sat-gi/1003558.html) .

 

[1] Xem: Nguyễn Hữu Quý, Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?, 29/4/2017, trong Biển đông chủ quyền (http://quangda.de/bien-dong-chu-quyen/bien-gioi-lanh-tho/5918-trung-quoc-dang-co-am-muu-gi-o-ha-tinh-va-quang-tri.html)

 

[1] Xem: Trần Xuân, Formosa Hà Tĩnh chuyển chất thải độc hại từ Đài Loan vào Việt Nam đổ?, trong blog Người Kỳ Anh (http://nguoikyanh.blogspot.fr/2016/07/formosa-chuyen-chat-thai-doc-hai-tu-dai-loan-vao-viet-nam-do.html) .

 

[1] Về dự án Cà Ná, xem : Tuấn Hưng, Dự án thép Cà Ná, tập đoàn Hoa Sen có tránh nổi những rủi ro khôn lường này?, trong Việt Nam thời báo (http://nguoikyanh.blogspot.fr/2016/07/formosa-chuyen-chat-thai-doc-hai-tu-dai-loan-vao-viet-nam-do.html) và: Lê Anh Hùng, Hiểm họa Trung Quốc trong dự án thép Cà Ná, 20/9/2016, trong VOA (http://www.voatiengviet.com/a/hiem-hoa-tq-trong-du-an-thep-ca-na/3519187.html) .

 

[1] Xem : Mai Nguyên, Bị tẩy chay ở Trung Quốc, nhà máy giấy Lee § Man tìm cách xâm nhập Việt Nam, đầu độc nguồn nước đồng bằng sông Cửu Long, trong Thanh niên Việt Nam (http://www.thanhnientphcm.com/2017/04/bi-tay-chay-o-trung-quoc-nha-may-giay-lee-man-tim-cach-xam-nhap-viet-nam-dau-doc-nguon-nuoc-dong-bang-song-cuu-long.html) .

 

[1] Hiện có 2 phương pháp tẩy trắng giấy : 1° phương pháp bình thường với khí clo, bioxit clo, hypoclorit natri, peroxit hydro ; cách tẩy bằng xút, quá hại môi trường đã bị bỏ ở Âu Mỹ, tuy vẫn phải dùng tới xút để khử chất clorolignin ở giấy; 2° phương pháp mới hơn, với oxy hoặc hơn nữa với ozon.

[1] Xem: Hồ Hùng, Người dân run rẩy vì nhà máy giấy lớn bậc nhất thế giới sắp vận hành ở miền Tây , 5/7/2016, trong Soha News (http://soha.vn/nguoi-dan-run-ray-vi-nha-may-giay-lon-bac-nhat-the-gioi-sap-van-hanh-o-mien-tay-20160705105006814.htm) .

 

[1] Về nhà máy Đại Dương, xem : Phương Dung, Nguy cơ gây ô nhiễm sông Tiền, xem xét từ chối dự án nhà máy giấy gần 5000 tỷ đông, 11/4/2017, trong Dân Trí (http://dantri.com.vn/kinh-doanh/nguy-co-gay-o-nhiem-song-tien-xem-xet-tu-choi-du-an-nha-may-giay-gan-5000-ty-dong-20170411093805725.htm) .

 

[1] Để có ý niệm về tình hình năng lượng Việt Nam, xem : Nguyên Phạm, Tình hình năng lượng Việt Nam, 10/11/2016, trong Năng lượng hạt nhân (http://www.nangluonghatnhan.com/single-post/2016/11/11/T%C3%ACnh-h%C3%ACnh-n%C4%83ng-l%C6%B0%E1%BB%A3ng-Vi%E1%BB%87t-Nam) .

 

[1] Về những nhà máy nhiệt điện ở VN, xem : Vân Trường – Anh Đức, 14 nhà máy nhiệt điện vây đồng bằng sông Cửu Long, 3/10/2016, trong Tuổi trẻ, (http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20161003/14-nha-may-nhiet-dien-vay-dong-bang-song-cuu-long/1181694.html) .

 

[1] Xem : Trường Sơn – Đình Tuyến, Nhiều sai phạm trong vận hành dự án nhiệt điện Duyên Hải, 2/10/2016, trong Thanh Niên (http://thanhnien.vn/thoi-su/nhieu-sai-pham-trong-van-hanh-du-an-nhiet-dien-duyen-hai-750550.html).

 

[1] Xem một loạt livestream của Huỳnh Quốc Huy trên You tube về đề tài này, ví như : https://www.youtube.com/watch?v=fP2Gbg8UHc4 .

 

[1] Con số hơn 2,5 triệu người bỏ VN sang nước ngoài sinh sống từ 1990 đến 2015 là do Vụ kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc (UN-DESA) cung cấp. Xem: Hồ Mai, Mỗi năm gần 100 nghìn người di cư ra nước ngoài, 24/7/2016, trong Vietnam finance  (http://vietnamfinance.vn/tai-chinh-quoc-te/moi-nam-gan-100-nghin-nguoi-viet-di-cu-ra-nuoc-ngoai-20160722095009241.htm) . Vì không cấp nổi việc làm cho công dân, tà quyền cộng sản Việt Nam khuyến khích công dân đi kiếm ăn ở nước ngoài dưới cái từ ngữ hạ nhân phẩm “xuất khẩu lao động” làm như con người chỉ là một món hàng buôn bán. Số 2,5 triệu dân di cư kia là số chính thức, không kể đến những người đi “chui” và ở lậu. Theo dư luận thì số người ra đi lớn gấp hai.

 

[1] Xem: Hà Quyên, Hơn 300 người Việt chết mỗi ngày vì ung thư, 5/2/2017, trong Zing.vn (http://news.zing.vn/hon-300-nguoi-viet-chet-moi-ngay-vi-ung-thu-post718306.html) .

 

[1] Về vấn đề công dân Trung Quốc tại Việt Nam xem: Thực trạng lao động Trung Quốc tại Việt Nam, 12/8/2011, trong Báo không lề  (https://baokhongle.wordpress.com/2011/08/12/th%E1%BB%B1c-tr%E1%BA%A1ng-lao-d%E1%BB%99ng-trung-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%A1i-vi%E1%BB%87t-nam) . Bài báo cho hay năm 2009 có 35.000 dân lao động Trung Quốc và 800.000 người Hoa (dân VN?) sống tại Việt Nam. Ngoài bài báo này không thấy tài liệu khác nói về số dân Trung cộng ở VN. Theo thông tin nhà nước hiện ở VN có hơn 1300 công ty Trung Quốc đăng ký, một con số nhỏ so với thực tế vì nó không kể đến vô số công ty đăng ký là của người Việt hay nước khác nhưng sau đó đã được mua lại bởi người Trung Quốc; theo dư luận số công ty của Trung cộng ở VN phải ít nhất là 5000. Nếu tính trung bình mỗi công ty TQ nhập khoảng 1000 công nhân nước họ thì ở VN đã có ít nhất 1,3 triệu người dân Trung cộng.

 

[1] Xem: Việt Nam phản đối bài viết trên mạng Trung Quốc, 5/9/2008, trong BBC Vietnamese.com (http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080905_viet_protest_china.shtml).

 

[1] Xem: Nguyễn Văn Tuấn, Liệu quân phục Việt Nam có made in China ?  18/7/2011, trong Vietinfo (http://m.vietinfo.eu/tu-lieu/lieu-quan-phuc-viet-nam-co-made-in-china.html).

 

[1] Theo Vũ Quang Việt, cựu vụ trưởng vụ kế hoạch của Liên hiệp quốc, nợ công thực sự của Việt Nam là 431 tỷ USD, một con số bao gồm nợ nhà nước và nợ của các công ty do nhà nước bảo lãnh (324 tỷ USD), tương đương với 219% GDP. Xem: Lê Dung/STBN, Không phải 62% GDP mà nợ công VN đang là 210% GDP, in Việt Nam thời báo, 20/2/2017 ( http://www.ijavn.org/2017/02/vntb-khong-phai-62-gdp-ma-no-cong-viet.html).

 

[1] Một bài báo đăng trong blog của Hiếu Trương liệt kê tài sản tham nhũng của cán bộ cộng sản vào năm 2005. Xem: NT, Danh sách trên 300 cán bộ cộng sản có tài sản vài trăm triệu mỹ kim  (https://vivi099.wordpress.com/2015/11/01/danh-sach-tren-300-can-bo-cong-san-co-tai-san-vai-tram-trieu-my-kim/ ). Tính theo tài liệu này thì hồi đó số tiền tham nhũng của các quan chức đã lên đến khoảng 300 tỷ USD. Bây giờ, hơn 10 năm sau, con số đó phải nhân với 2,3. Riêng sự biển thủ dầu hỏa tại công ty dầu khí lên tới 36 tỷ/năm, trong 10 năm là 360 tỷ, theo lời tố cáo của Trịnh Xuân Thanh trong You tube: (https://www.youtube.com/watch?v=mcvgXfaOdho) .

QUỐC HẬN 30/4 TẠI TORONTO VÀ THỦ ĐÔ OTTAWA, CANADA – 2017

LỄ CHÀO CỜ TƯỞNG NIỆM 42 NĂM QUỐC HẬN NĂM 2017 CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TỰ DO TẠI VÙNG ĐẠI ĐÔ THỊ TORONTO ĐÃ ĐƯỢC TỔ CHỨC

TRONG 3 NGÀY VÀ 3 NƠI KHÁC NHAU:

  1. NGÀY 29/04/2017: LỄ THƯỢNG KỲ CỜ VÀNG VNCH TRƯỚC QUỐC HỘI TỈNH BANG ONTARIO TẠI QUEEN’S PARK , TORONTO

 

https://www.flickr.com/photos/75610639@N07/sets/72157683136813276/

(The Journey to Freedom Day 30-4-2017, Queen’s Park, Ontario Canada

Lần đầu tiên, trong 42 năm qua, Lễ Tưỏng Niệm 30-4 tại thành phố Toronto được tổ chức tại Queen’s Park tòa nhà Quốc Hội của tỉnh bang Ontario, CANADA.)

NGHIA DO

***

https://photos.google.com/share/AF1QipMzVQGOaBvFiqtm1SHLX1HA-g3DynRat_Rfg8fJn-WYqxk1r-4ZKKKnvA0mxkDXSw?key=dVg4WHZIdUxvTjE2M25FdlZta0ZPSXM5cDhtUU53

(Tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng Tư: Lễ Thượng Kỳ VNCH lần đầu tiên năm 2017 tại Viện Lập Pháp tỉnh bang Ontario, Canada.)

TRẦN CAO MINH

***

https://get.google.com/albumarchive/110033572606660377857/album/AF1QipOV87O0mmw1e2xmOQ2TsLvYEdAUWomLtcXl5qzM?source=pwa

(VIETNAMESE CANADIAN FLAG RAISING AT QUEEN’S PARK, ONTARIO, CANADA – APRIL 29, 2017)

ĐÀM TRUNG PHÁN

***

http://thuduc-ontario.ca/Folder/thuongky-queenspark/index.html

(Lễ Thượng Kỳ VNCH Trước Tiền Đình Quốc Hội Tỉnh Bang Ontario, Ngày 29/04/2017.)

ĐẶNG HOÀNG SƠN

 ***

https://www.youtube.com/watch?v=hbEnlmp765k

(Quốc Hận 30 4 2017 tại Queen’s Park)

VS Le

***

https://www.youtube.com/watch?v=kmuZJ1ek4sk&feature=youtu.be

Phóng sự đặc biệt Lễ Thượng Kỳ VNCH tại Quốc Hội Tỉnh Bang Ontario

vbstvcanada

================================

  1. NGÀY 30/04/2017:

 

LỄ CHÀO CỜ TƯỞNG NIỆM 42 NĂM QUỐC HẬN TẠI MEL LASTMAN SQUARE, TORONTO

 


https://get.google.com/albumarchive/110033572606660377857/album/AF1QipOACJ1ed1H3CBXHFeuWDgjzO4iaUHoZ91bHWGwt?source=pwa

(TƯỞNG NIỆM 42 NĂM NGÀY QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 TẠI MEL LASTMAN SQUARE, TORONTO)

 

ĐÀM TRUNG PHÁN

***

http://thuduc-ontario.ca/Folder/chaoco-northyork/index.html

LỄ CHÀO CỜ TƯỞNG NIỆM
42 NĂM QUỐC HẬN
TẠI MEL LASTMAN SQUARE,
Ngày 30/04/2017.

ĐẶNG HOÀNG SƠN

***

 

https://www.youtube.com/watch?v=h5dOILKZJPo

( Quốc Hận tại Mel Lastman)

 

Vo Media

 

 =================

  1. NGÀY 01/05/2017: LỄ THƯỢNG KỲ VNCH TRƯỚC QUỐC HỘI LIÊN BANG CANADA TẠI THỦ ĐÔ OTTAWA, CANADA

 

http://thuduc-ontario.ca/Folder/thuongky-ottawa/index.html

(Thượng Kỳ tại thủ đô Ottawa, Canada )

 

ĐẶNG HOÀNG SƠN

 

***

 

https://www.youtube.com/watch?v=4DhHNwDfmpE&feature=youtu.be

(Lễ Thượng Kỳ VNCH ttrước Quốc Hội Liên Bang, Ottawa, Canada)

 

vbstvcanada

 

***

https://photos.google.com/share/AF1QipPca5VroGTlKHtdzFXQ1TzghzbGoeLmZ92VEnHY0lCaJhEDkMqftRLbpN0PKitbMA?key=VHhYWW9ZOTRpeW9WUkJpRTJIaFdDazRXcXk1b1dB

(Lễ Thượng kỳ VNCH tại tiền đình Quốc Hội Canada ngày 1 tháng 5 năm 2017 –

Phần 1)

TRẦN THÁI LỰC

***

https://photos.google.com/share/AF1QipOzD736h5Hu6pnh6C-xwcUuyLLVEGaxQwfCEFIiQ2WwGrvGR-IfdD1Jl-OMR60r5A?key=U19kdWZ2MHFIcm44T2RIM3RUTkxjdlk0OTlaNGhR

(Lễ Thượng kỳ VNCH tại tiền đình Quốc Hội Canada ngày 1 tháng 5 năm 2017-

Phần  2)

TRẦN THÁI LỰC

 

***

https://drive.google.com/drive/folders/0BxkCX9AjyMaQSzJXeE0tWElYSDQ

Lễ thượng kỳ VNCH tại Ottawa ngày Một tháng Năm 2017

 

Khách Qua Đường

***

VIDEO TÀI LIỆU:

https://www.youtube.com/watch?v=gSsEzofOYuw

(Phim Tài Liệu 30.4.1975-42 Năm Không Thể Quên Ngày Quốc Hận)

LIKE CHO VIỆT NAM

 

BẢN TUYÊN CÁO CỦA LIÊN HỘI NGƯỜI VIỆT CANADA

BẢN TUYÊN CÁO

 

Liên Hội Người Việt Canada đại diện 11 hội thành viên trên toàn quốc Canada trân trọng tuyên cáo:

 

XÉT RẰNG:

  • Ngày 26 tháng 3, 2004, bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam ra nghị quyết 36
  • Ngày 5 tháng 4, 2016, thủ tướng chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tức nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam ra nghị quyết 27
  • Hai nghị quyết trên chủ đích/mưu đồ áp đặt thẩm quyền của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đối với người Việt định cư tại hải ngoại
  • Chủ đích/mưu đồ này hoàn toàn vi phạm công pháp quốc tế: mọi người Việt sinh sống tại bất cứ thuộc quốc gia nào, đã trở thành công dân của xứ sở mới đó. Đối với cộng đồng người Canada gốc Việt chúng ta khi được Canada cho hưởng qui chế tị nạn chính trị đều bị liệt vào hạng “vô tổ quốc” , và ngày nay chúng ta là công dân Canada không chấp nhận chế độ cộng sản tại Việt Nam và không phải là kiều dân của chế độ này.
  • Hai nghị quyết trên còn chỉ thị cho các cơ sở ngoại giao của họ tại ngoại quốc xâm nhập, lũng đoạn, khống chế các tổ chức cộng đồng người Canada gốc Việt Quốc Gia
  • Sứ Quán của họ tại Ottawa đã thành lập cái gọi là Hiệp Hội Canada Việt Nam (Canada Vietnam Society-CVS) vào tháng 2, 2016 và chính thức ra mắt vào tháng 4, 2016
  • Hiệp Hội Canada Vietnam (CVS), công cụ của chế độ cộng sản, đã mạo nhận là đại diện cho trên 200,000 người Canada gốc Việt tại Canada.

 

Nửa thế kỷ qua, chế độ cộng sản đã gây bao tang tóc cho người dân Việt tại hai miền qua cuộc cải cách ruộng đất giết hại gần 250,000 người dân vô tội. Khoảng hai triệu (2,000,000) người đã thiệt mạng trong cuộc xâm chiếm miền Nam Việt Nam của cộng sản miền Bắc. Hành Trình Tự Do hay Tháng Tư Đen 30-4-1975 của trên hai triệu người thì khoảng 1⁄4 (nửa triệu) đã bỏ mình không tới được bến bờ tư do. Đó là chưa kể khoảng 150,000 quân, dân chính phục vụ dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa bị chết trong các trại tù “cải tạo” của cộng sản. Tội ác tầy trời đó cộng đồng người Canada gốc Việt cũng như các cộng đồng người Viêt quốc gia khác trên toàn thế giới không thể tha thứ cho chế độ“ác với dân, hèn với giặc”, tham nhũng trên xương máu đồng bào ruôt thịt, Cộng đồng quốc giasẽ siết chặt hàng ngũ không để cho chúng và tay sai tác oai, tác quái, thực hiện ý đồ của chúng tại Canada nói riêng, và hải ngoại nói chung.

TUYÊN CÁO

Cộng đồng người Canada gốc Việt trên toàn quốc Canada chúng ta:

  • Phải sáng suốt nhận định rõ bộ mặt thật của Hiêp Hội Canada-Viêt Nam (Canada Vietnam Society – CVS) chỉ là công cụ của nhà cầm quyền cộng sản tạo ra để mưu toan phá hoại cộng đồng Người Việt Quốc Gia tại Canada.
  • Không gia nhập hay hoạt động trực tiếp hay gián tiếp cho Hiêp Hội này hoặc các cơ sở liên hệ.
  • Các cơ sở thương mại không hợp tác hay tài trợ cho Hiêp Hội và các cơ sở liên hệ.
  • Không tham dự các tổ chức văn nghệ giải trí của cộng sản hay thân cộng dùng các thành phần nghệ/ca sĩ đem từ VN qua trình diễn, trong đó có những cán bộ cộng sản như Thu Phương, Đàm Vĩnh Hưng… Tham gia đông đảo các cuộc biểu tình tẩy chay các buổi trình diễn này
  • Tích cực ủng hộ dự luật chế tài các thành phần tham nhũng S-226 của Thương Viện.
  • Người Việt Quốc Gia tại Canada và các thế hệ kế thừa minh định rằng Hiệp Hội Canada Việt Nam không có tư cách đại diện cho trên 200,000 tập thể người Canada gốc Viêt tại Canada.

 

Làm tại Toronto, Canada ngày 5 tháng 3 năm 2017

Liên Hội Người Việt Canada

HUYỀN THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINH – GS TRẦN GIA PHỤNG + TỐ CÁO TÒA ĐẠI SỨ CSVN MƯU TOAN THÀNH LẬP HỘI HIỆP THƯƠNG CANADA – VIỆT NAM (CVS)

HUYỀN THOẠI VỀ NHÂN VẬT HỒ CHÍ MINH

Trần Gia Phụng

Lời nói đầu:

Được sự thỏa thuận của tác giả, chúng tôi xin giới thiệu tác phẩm HUYỀN THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINH của GS Trần Gia Phụng. Trong bài viết này, tác giả Trần Gia Phụng chỉ muốn nêu lên những huyền thoại do tự nhân vật Hồ Chí Minh hay thuộc hạ dựng lên để “làm đẹp” cho nhân vật chính mà thôi.

Những huyền thoại được nêu ra trong những tiết mục sau đây:

  • Người cha
  • Trần Dân Tiên / Hồ Chí Minh
  • Đoàn kết dân tộc
  • Giải phóng dân tộc
  • Tư tưởng Hồ Chí Minh
  • Lăng (tẩm) Hồ Chí Minh
  • Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới
  • Trộm Thơ / Đạo Văn
  • ….

Xin mời đọc:

Xin Quý Vị bấm mũi tên để mở bài viết về huyền thoại HCM:

huyen-thoai-hcm-2016-pdf

 

***

Cũng xin mời Quý Vị vào đọc:

Bài viết thêm về nhân vật Hồ Chí Minh và Hiệp Hội Canada Viet Society (CVS) của nhà báo Lâm Văn Bé.

 

Hồ Chí Minh hôm nay là đề tài của mọi chế giễu khinh miệt của Việt Nam và thế giới sau khi các tài liệu lịch sử và nhân chứng vạch trần trăm thứ tội ác. Nhưng Hồ Chí Minh cách đây nửa thế kỷ đã được các nhà viết sử và chính trị gia tôn sùng như bậc vĩ nhân và các trường đại học chồng chất các nghiên cứu, luận án về con người mà nửa thế kỷ sau khám phá ra chỉ là tên tội phạm.

Chính trong bối cảnh ấy, UNESCO, (United Nations Educational Scientific and Cultural Organisation), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hiệp Quốc, có trụ sở ở Paris, nhận văn thơ ngày 14/04/1987 của Võ Đông Giang, Chủ tịch Ủy Ban UNESCO Việt Nam đề nghị với UNESCO “ghi tên Hồ chủ tịch vào danh sách danh nhân thế giới” nhân ngày kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990.

Đề nghị này được Đại hội đồng khóa 24 của UNESCO chấp thuận, lúc ấy dưới quyền của Tổng Giám Đốc Amadou Mahar M’Bow, một người Phi Châu thân Cộng Sản.

Được tin nầy, một số nhân sĩ ở Paris thành lập “Ủy Ban tố cáo tội ác Hồ Chí Minh” và đề cử Tiến sĩ Nguyễn văn Trần điều hợp cuộc tranh đấu phản đối quyết định của UNESCO.

Lý luận của Ủy Ban dựa trên 2 điểm: Hồ Chí Minh không phải là nhà văn hóa vì ông chỉ học đến lớp 3 tiểu học, không phải là nhà chính trị lôi lạc vì nếu nói là HCM có công đánh đuổi giặc Pháp nhưng lại có tội thiết lập một chế độ Cộng Sản độc tài. Chính phủ cộng sản có viện dẫn tác phẩm Ngục Trung Nhật Ký (Nhật ký trong tù) cho là của Hồ Chí Minh để chứng minh trình độ văn hóa, nhưng GS Lê Hữu Mục, trong một nghiên cứu tỉ mỉ dài 31 trang xác nhận Hồ Chí Minh không thể hay không phải là tác giả của quyển sách nầy. Sau đó, Đỗ Nam Hải, Đỗ Thông Minh cũng cùng có quan điểm như GS Mục. Không phải chỉ mạo nhận Ngục Trung Nhật Ký, mà Hồ Chí Minh còn mạo nhận cả các bài viết của nhóm Annam Yêu nước (Association des Patriotes annamites) của Nguyễn Thế Truyền khi ông bị đày ra Côn Đảo và các thành viên trong nhóm đã chết, gom lại để in thành “Hồ Chí Minh toàn tập”, chưa kể hành động gian xảo tự viết mà lấy tên khác để đánh bóng mình (Trần Dân Tiên. Những chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch).

Về năm sinh, theo ông Bùi Tín thì HCM khai 5 năm sinh khác nhau (1890 đến 1894) và ngày “19/05/1890 là một ngày giả”.

Với những dữ kiện như vậy, đâu thế nào UNESCO vinh danh một người gian dối.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban, người Việt ở hải ngoại nhiều nơi biểu tình phản đối, có đến 20 000 bức thơ và kiến nghị gởi đến UNESCO. Ủy Ban cũng vận động với các giới chức văn hóa, chính trị Pháp nên được sự tham dự của Hội Cựu Chiến Binh Pháp, Hội những Người Bạn Đông Dương (ANAI) mà nhiều hội viên khi xưa là những cựu chiến binh thì nay là những dân biểu, yếu nhân trong chính quyền Pháp.

Trước áp lực của dư luận và sự ủng hộ của Quốc hội và chính phủ Pháp, UNESCO quyết định không thực hiện nghị quyết vinh danh Hồ Chí Minh bởi lẽ họ không thể hủy bỏ nghị quyết ấy, phải chờ đến đại hội đồng năm 1992 (5 năm mới họp một lần) mới hủy bỏ chính thức được.

Trả lời cuộc phỏng vấn của RFA, TS Nguyễn Văn Trần đã nói: Giám Đốc Đông Nam Á Sự Vụ lúc đó là một người Lào đã trả lời với chúng tôi rằng “Chúng tôi không có quyền hủy bỏ cái nghị quyết. Chúng tôi chỉ làm được một việc là không thi hành cái nghị quyết đó. Và chúng tôi thông báo cho ông biết rằng Thị Xã Paris không tham dự, Chính Phủ Pháp không tham dự, UNESCO không tham dự, và UNESCO không tổ chức cái lễ đó tại trụ sở UNESCO và cũng không thi hành cái nghị quyết là sẽ trợ cấp ngân khoản cho Hà Nội tổ chức tại Hà Nội”. Và họ thông báo thêm rằng Toà Đại Sứ Việt Nam ở Paris thuê 2 phòng ở trong trụ sở UNESCO để tổ chức. Lúc đó chúng tôi phản đối nên họ rút lại chỉ còn 1 phòng thôi.” (UNESCO có vinh danh HCM không? RFA ngày 19/05/2008)

Mặc dù Việt Cộng chỉ tổ chức văn nghệ vào ngày 19/05/1990 trong căn phòng mướn của UNESCO, chớ không có vinh danh gì cả, nhưng một số người chống cái quyết định nầy như Olivier Todd, Jean-François Revel, Trần Văn Tòng (anh của Trần Văn Bá) cũng đến chất vấn nhân viên thẩm quyền của UNESCO cho ra lẽ.

Tại Hà Nội, Ông Bùi Tín có đến tham dự buổi lễ vào sáng ngày 19-5-1990, và xác nhận cũng không có đại diện nào của UNESCO.

Như vậy, rõ ràng là UNESCO không có vinh danh Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới nhân ngày kỷ niêm 100 năm ngày sinh của ông vào năm 1990, nhưng các sách giáo khoa, báo chí và chánh quyền cộng sản vẫn nhắc nhở gian dối sự kiện nầy.

***

Theo thời gian, Hồ Chí Minh lần lượt hiện nguyên hình là một tên vô đạo như ấu dâm, đa dâm (6 bà vợ chính thức không kể các hộ lý), giết vợ, bỏ rơi con, độc tài, bất tài, hèn hạ đưa đất nước đến đại họa. Hồ Chí Minh là đề tài để cho mọi người dân Việt Nam trêu cợt, khinh bỉ, thậm chí có những ví von thô tục: đi thăm Lăng Bác có nghĩa là đi nhà cầu. Mặc dù vẫn biết Hồ Chí Minh hôm nay chỉ là cái xác hôi thúi và cái tư tưởng lạc hậu, nhưng các đảng viên cần đánh bóng làm thần tượng để núp bóng “học tập đạo đức của Bác” để tiếp tục tàn phá đất nước cho đến lúc diệt vong. Đối với khối Tây Phương, mặc dù có những liên lạc ngoai giao và kinh tế với Việt Nam, đa số các quốc gia nầy liệt VN vào loại quốc gia chậm tiến hay côn đồ bởi chánh sách cai trị bạo ngược, cực kỳ tham nhũng, và các nhà lãnh đạo ngu dốt chỉ biết bốc hốt và cúi đầu với kẻ thù. Sau 70 năm cai trị ở miền Bắc và 42 năm cai trị ở miền Nam với “thứ đạo đức của bác”, người dân phải học các thói hư tật xấu của bác và đảng để sinh tồn theo nguyên tắc “chính quyền nào, người dân này”, xã hội Việt Nam hôm nay đã rơi vào đáy tận cùng của phi đạo đức và phân cách giàu nghèo. Muốn vớt vát chút ít uy tín vào giờ thứ 25, Cộng Sản VN tìm dựa vào hơi hám của các đồng chí Đông Âu mà quốc gia sáng giá nhứt là Áo.

Tháng 8/2016, VN vận động với nhóm cộng sản trong hội Áo-Việt đề nghị Hội Đồng Thành phố Wien dựng một bức tượng Hồ Chí Minh trong công viên Donaupark, chi phí xây dựng do chính phủ VN đài thọ, Sở Công Viên của thành phố phụ trách chăm sóc, gìn giữ.

Nguồn tin trên được tiết lộ vào đầu năm 2017 đã tạo một luồng dư luận chống đối trong giới báo chí Áo và sự công phẫn của cộng đồng người Việt tị nạn ở Áo, Đức và thế giới. BS Hoàng Thị Mỹ Lâm, nhân danh Chủ tịch Liên Hội Người Việt tị nạn Cộng Hòa Liên Bang Đức đã viết thơ phản đối gởi chánh quyền Áo và kêu gọi cộng đồng người Việt thế giới ký kiến nghị đòi hỏi Thành phố Wien phải bãi bỏ dự án nầy.

Tờ báo Krone châm biếm: “Vô số tội phạm chiến tranh, hàng triệu người chết, tra tấn có hệ thống và khủng bố đẫm máu, bảng thành tích đầy xác người này rõ ràng là điều kiện lý tưởng để được vinh danh với một tượng đài ở thành phố Wien”, và bài báo trích lời của nữ ký giả trên tuần báo Falter: “thành phần 68 (phản chiến) trong cánh tả của Tòa Thị chính lại quên không nhắc đến những chiến dịch thanh trừng, những phát súng bắn vào gáy, những màn tra tấn ghê tởm nhất đối với những phi công Mỹ bị bắt hay những trại tù cải tạo cộng sản của Hồ Chí Minh”

Vera Lengfeld (cựu dân biểu liên bang Đức) trên Ef viết: “Vào tháng 10 năm nay một đài tưởng niệm tên độc tài và kẻ đại sát nhân Việt Nam Hồ Chí Minh sẽ được khánh thành tại công viên Donau ở Wien. Cán bộ công đoàn Marcus Strohmeier trong Hội đồng quản trị Hội Áo-Việt đã thành công trong việc vận động Tòa thị chính Wien cho dự án này.

Cuối cùng, công lý và chính nghĩa đã thắng.

Tờ Die Presse bản báo giấy ngày 24/02/2017 đăng bài “Đình chỉ trên đường mòn dẫn đến Tượng đài Hồ Chí Minh”, trong đó ký giả Erich Kocina viết: “hành phố Wien dừng dự án xây đài tưởng niệm nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam trong công viên Donau. Việt Nam muốn tặng Áo bức tượng nhưng sau những phản đối mãnh liệt, Toà Thị chính đã tạm thời đình chỉ”. Ký giả Erich Kocina tiếp: “Các báo viết về đề tài này đã tạo nên một làn sóng phẫn nộ. Hôm thứ năm chính quyền thành phố đã bị sốc. Đài tưởng niệm cho một nhân vật lịch sử gây nhiều tranh cãi không dễ dàng thuyết phục được ai. Hồ Chí Minh không phải là người có thanh danh tốt đẹp. Nhà lãnh đạo Cộng sản, chết năm 1969, bị tố cáo là tra tấn và giết các đối thủ chính trị”. (Diễn Đàn VN 21. Trần Việt dịch phổ biến trên Internet)

Tuy hai sự kiện trên xảy ra cách nhau 27 năm với những dữ kiện khác nhau nhưng có một điểm duy nhứt giống nhau, đó là sức mạnh của tiếng nói phản kháng. Nếu không có sự phản kháng của 20 000 người Việt tị nạn Việt Nam và những người Pháp binh vực cho công lý năm 1990 thì Hồ Chí Minh đã là một vĩ nhân. Nếu không có người Việt tị nạn khắp nơi cũng như những người bạn trong báo giới nước Áo, nước Đức lên tiếng đòi hỏi công lý vào năm 2017, tên đồ tể Hồ Chí Minh sẽ được đổi lốt là người hùng.

Cộng Sản có công an súng đạn, có nhà tù nhưng chúng không có chính nghĩa. Gaddafi cai trị bằng sắt máu ở Lybie hơn 40 năm, nào ai có ngờ, Gaddafi và đồng bọn đã phơi thây trên đường phố. Với niềm tin chính nghĩa, người dân sẽ đứng lên diệt độc tài để tìm quyền sống, đảng Cộng Sản VN sẽ nếm mùi của đảng Gaddafi một ngày gần đây. Giờ thứ 25 của chế độ cộng sản đã điểm khi hàng ngàn giáo dân ở Nghệ An và nhiều nơi khác đã nổi dậy bất chấp bị đánh đập, bỏ tù,

Nhắc đến Hồ Chí Minh, chúng tôi cũng muốn nhắc đến một hiện tượng đang xảy ra tại Canada. Nếu sách vở báo chí viết ca tụng Hồ Chí Minh đang nằm móc meo trong các văn khổ và tôi ác của Hồ Chí Minh tiếp tục được phơi bày, thì tại Canada có một Việt kiều (cần phân biệt Việt Kiều với người Việt tị nạn) đến Montréal năm 1990 đê học cử nhân Thương mại ở đại học Concordia nhận thấy “trong bộ phim của một nhóm người Việt ở nước ngoài xuyên tạc về Hồ Chủ Tịch vì vậy năm 2009, tôi quyết định tập hợp những kết quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh để ra mắt cuốn Hồ Chí Minh : Tâm và Tài (2010). Tôi thấy các tác giả phương Tây chưa thấy hết được về con người nhân văn của Hồ Chủ tịch… Sau đó tôi dành 3 năm tập trung nghiên cứu về vấn dề phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh và cho ra mắt cuốn sách thứ hai: Hồ Chí Minh: Nhân văn và phát triển (2013)” (Nguyễn Đài Trang. Yêu quê hương, sẽ yêu tiếng Việt/báo Dân Trí).

Người sử gia ấy tên là Nguyễn Đài Trang, có thời là giáo sư Kế Toán ở Centennial College, tại Scarbourough, Toronto và là thành viên Hội Đồng Thương Mại Canada (Canada-Vietnam Trade Council), là cơ quan ngoại vi của Hiệp hội Canada-Vietnam (Canada-Vietnam Society CVS), là cơ quan ngoai vi của Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Canada. Bà Đài Trang hiện nay đang bao thầu việc xây dựng các CVS ở Canada, hiện đã có 4 CVS ở Toronto, Montréal, Ottawa, Vancouver.

Theo bản thông tin của CVS, Hiệp Hội Canada có 2 mục tiêu như sau:

– Xây dựng cộng đồng người Việt trên toàn Canada vững mạnh, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau hội nhập thành công vào xã hội Canada và duy trì, giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống của dân tộc.

– Thúc đẩy các hoạt động giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực và quan nghệ hữu nghị nhân dân giữa hai nước Canada và Việt Nam.

CVS ra mắt hiệp hộì Ottawa ngày 26/04/2016.

“Phát biểu tại buổi lễ, Đại sứ Việt Nam tại Canada Tô Anh Dũng cho biết do đặc thù lịch sử, từ nhiều năm nay chưa hình thành được một tổ chức chung của người Việt Nam tại Canada. Tuy nhiên, trong thời gian qua, trước nhu cầu thành lập hiệp hội chung, các hiệp hội, nhóm hội ở Canada đã liên kết với nhau và đứng ra thành lập CVS với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Việt Nam”.

Cũng trong buổi lễ, Bà Đài Trang tuyên bố các CVS là đại diện cho 250 000 người Việt ở Canada.

Quả thực là lộng ngôn, gian dối và lừa đảo, bản chất cố hữu của người cộng sản. Trên thế giới, chưa có một quốc gia nào mà Tòa đại sứ ngang nhiên đứng ra lập hội để hỗ trợ cho các sinh hoạt của Tòa đại sứ. Tại Canada, 99% người Việt Nam là người tị nạn, không chấp nhận chế độ cộng sản, đã đến Canada lập nghiệp và là công dân của Canada. Người dân Canadiens gốc Việt không phải là kiều bào, và thật là khôi hài khi Tòa đại sứ Việt Nam Cộng Sản và Canada-Việtnam Society do tòa đại sứ nặn ra muốn xây dựng cộng đồng người “Việt trên toàn Canada sic)”. Chắc các các ông bà trong tòa sứ Việt Cộng và CVS biết rõ từ 42 năm nay, người Việt tị nạn tại Canada đã thành lập các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại những nơi có đông đảo người Việt tị nạn để liên kết những người không chấp nhận chế độ cộng sản cùng tái lập đời sống trong tự do, công bình và bác ái. Cùng với người Canadiens bản xứ, người Việt tị nạn đã trưởng thành trong văn hóa ứng xử, nhứt là sự tôn trọng nhân quyền. Người Việt tị nạn muốn xa lánh các hiệp hội cộng sản bởi lẽ trong các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hay các Liên Hội không có những người xuất khẩu lao động, hợp pháp và bất hợp pháp, những du sinh con cháu các cấp lãnh đạo và đại gia tham nhũng đi du hí ở các campus đại học để kiếm vợ, kiếm chồng, chuyển tài sản ăn cướp ra ngoại quốc, những công an giả dạng là tu nghiệp sinh để rù quến con cháu người tị nạn, những thương gia mánh mun trong đó có lẫn lộn dư đảng của nhóm Việt Kiều Đoàn Kết trước 1975 và các đai gia đổi dạng từ “cannabis farmer” (danh từ của người dân Vancouver chỉ người trồng cỏ), những người có visa du lịch trốn ở lại sau khi hết hạn rồi làm việc phi pháp. Trong các Cộng Đồng Quốc Gia cũng không có hạng người tị nạn mất lương tri, tuy là rất ít, đi đi về về VN du hí rồi trở cờ theo cộng sản, những ngụy trí thức tôn thờ cộng sản.

Người Việt Nam có câu: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Biết được như vậy, nếu nhà ai nấy ở, hội ai nấy hoạt động, đừng quấy phá nhau, thì thế giới nầy không có chiến tranh, Việt Nam không có… cộng sản. Mà nếu không may có Cộng Sản Việt Nam rồi thì xin đừng xuất cảng thói hư tật xấu Việt Nam ra ngoại quốc, xấu hổ lắm!

25/02/2017

Lâm Văn Bé

***

Các youtubes của CĐVN Tự Do tố các các hoạt động của CSVN tại Canada:

https://www.youtube.com/watch?v=wxXMIX6mfiE

Hiệp hội Canada Việt Nam và những mưu đồ chia rẽ người Việt tại Canada

https://www.youtube.com/watch?v=19uMoreqTxQ

Cuộc Biểu Tình Chống Văn Hóa Vận tại Thành Phố Toronto 2017

https://www.youtube.com/watch?v=FOwO5-9tOSs

Canada biểu tinh chống csVN ngày 19 2 2017 tại Ottawa.

LƯỢC THUẬT GIA PHẢ HỌ ĐÀM (Thận, Quang, Duy, Trung…) TỪ ĐẦU THẾ KỶ 14 ĐẾN THẬP NIÊN 1970

toc-pha-ho-dam

 

Lời mở đầu.

Người Việt chúng ta khi về già thường muốn tìm về cuội nguồn bằng cách đọc lại gia phả của giòng họ nhà mình. Năm 2011, anh em chúng tôi (Đàm Trung Pháp, Phán) may mắn đã được GS Đàm Quang Hưng tặng cho cuốn Đàm Thận Tộc Phả trong đó có ghi lại tên những người nam họ Đàm theo một thứ tự rất khoa học (theo cặp số đặc trưng). Việc tra tìm tên người (phái nam mà thôi, theo lối các cụ ngày xưa), giống như tra tụ điển vậy. Chúng tôi nhận thấy GS Đàm Quang Hưng (chi họ Đàm Quang ở Quảng Yên), thuộc thế hệ thứ 19, cùng thế hệ với nam giới Đàm Trung (con / cháu của thế hệ Đàm Duy và cha/chú/Bác của thế hệ Đàm Hiếu…) nhưng chi Đàm Quang thuộc chi trưởng cho nên GS Đàm Quang Hưng gọi anh chị em chúng tôi là các cô, các chú. Ngoài đời thì GS Hưng là vị Thầy kính mến của Đàm Trung Phán . Xin chân thành cám ơn GS Đàm Quang Hưng đã ưu ái trao tặng cho chú em / học trò của Thầy cuốn sách quý này.

 

Tháng 11, 2016 trong lúc tôi mở tất cả các hộc tủ để đi kiếm một cái hóa đơn (bill) mà chẳng thấy. Khi đóng cái hộc tủ cuối cùng, không tài nào tôi đẩy nó vào được, bèn phải kéo nó ra để quan sát tại sao. Hóa ra, ở phía bên trong tủ, trên sàn nhà, tôi thấy có rất nhiều giấy tờ. Kỳ lạ thay, tôi thấy một tập giấy viết tay, khổ dài (legal sized) : đây là bài viết về gia phả của giòng họ nhà chúng tôi bắt đầu từ thế kỷ 14 cho đến đời thứ 19 của họ Đàm (thập niên 1970). Tài liệu này đã được thân phụ chúng tôi, cụ Đàm Duy Tạo (*) , viết vào ngày 16/6/1974 khi cụ đã 79 tuổi, gần 1 năm trước khi cụ di tản sang Hoa Kỳ.

Tôi bàng hoàng ngồi đọc những giòng chữ thân thương đầy chân tình của người cha già viết cho đứa con đang sống xa nhà . Cha già chỉ sợ đứa con đang sỗng ở hải ngoại  không biết rõ về cội nguồn của mình. Cụ không quản khó khăn vì mắt đã mờ, tay đã run nhưng vẫn cố ngồi xuống viết cho tôi 14 trang giấy khổ dài (legal sized) , dùng kính “lúp” để viết và nhờ bạn tôi mang sang Canada đưa cho tôi. Tôi hoàn toàn không còn nhớ gì về lá thủ này vì tôi đã để quên nó trong cái hộc tủ đã quá lâu để rồi không còn biết gì về nó nữa. Tôi có cảm tưởng là Cụ không thục sự đã qua đời vì dường như Cụ luôn luôn ở bên cạnh tôi, nhất là trong những lúc tôi gặp buồn bực hay những khó khăn của cuộc đời.

Năm 2005, vọ chồng anh chị Đàm Trung Pháp và vợ chông tôi đã cùng nhau về thăm quê nội tại Bắc Ninh, Việt Nam và tôi đã chụp được nhiều tấm hình và nhất là đền  thờ của Quốc sư Đàm Thận Huy dưới đây:

dsc00048

Xin mời đọc bài viết về gia phả của cụ Đàm Duy Tạo (*) :

Họ Đàm nhà ta đến định cư tại làng Hương Mặc, tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, nước Đại Nam, kể đã lâu đời lắm, nhưng vì trải nhiều cuộc loạn ly, nên gia-phả thất lạc hoài và chỉ còn ghi chép lại được từ đời cụ Vô-Tâm, nghĩa là từ hồi  đầu thế kỷ thứ 14 đến nay. Cụ Vô-Tâm sống vào hồi biến loạn liên miên vì cuộc chiến tranh với giặc Minh của nhà Hồ, nhà Hậu Trần và nhà Lê. gia-pha-lang-me-x-dsc00031Bởi những cuộc binh biến kế tiếp, 2, 3 chục năm ấy mà gia-phả họ Đàm nhà ta mất hết cả, cho nên sự tích các Cụ từ xưa đến khi đó đều tiêu tán hoàn toàn. Vì vậy mà Tờ lược kê này đành lấy Cụ Vô-Tâm làm Thủy Tổ, và ghi là đời thứ I.

Đời thứ I.

Cụ ông hiệu Vô Tâm, húy (quên), Cụ bà hiệu Từ-Hạnh, họ, húy (đều quên). Hai cụ sống chừng vào hồi cuối Trần, đầu Lê (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14). Có 2 con trai, ông con trưởng có đỗ Trung Khoa, con cháu suy vi, đến đời Gia Long thì thật hết. Ông con thứ hai là Cụ Minh Đạo.

Đời thứ II.

Cụ Ông hiệu là Minh Đạo, húy (quên) được truy tặng là Thái Bảo, Giáo Nghĩa Hầu. Cụ bà hiệu là Từ Ý, húy và họ (đều quên), được truy phong Thái Bảo, Liệt phu nhân.
Hai cụ được 2 con trai. Ông con trưởng tức là Cụ Tiết. Ông con thứ hai húy là Thận Giản, đỗ Hoàng-Giáp, làm quan đến Thượng thư, hiệu là Minh Huệ, không có con trai.

Đời thứ III.

gia-pha-dsc00038Cụ ông húy là Thận-Huy, hiệu là Mạc Trai, đỗ tiến sĩ triều vua Lê Thánh Tông, được vào Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, và được Vua Lê Thánh Tông khen là “Thiên hạ đệ nhất danh thi nhân”. Cụ làm quan đến Lễ Bộ Thượng Thư, được phong tước Lâm Xuyên Bá, Cụ khởi nghĩa đánh Mạc trong 4 năm (1522 – 26) không được, rồi uống thuốc độc chết, sau được phong là Tiết Nghĩa Đại Vương, thụy là Trung Hiến.

Cụ Bà họ Nghiêm, húy (quên) người làng Quan-Độ (gần làng Hương Mạc nhà ta), Cụ theo Cụ ông khởi nghĩa rồi mất trong quận, nên sau được phong là Hoàng Hậu Phi Nhân. Hai cụ đều được phong là Phúc Thần lập đền thờ ở làng.
Ông thứ 2 và ông thứ 4 đều mất tích, có lẽ vì trốn nhà Mạc. Ông thứ 3 húy là Uyên Lương đỗ Nho Sinh trúng thức (tức như Cử nhân sau này) làm Tả Tư Mạc, Thừa Chính Sư, tức là tổ chi Cụ Tả ngày nay (Bọn nhà Nha Di đều là con cháu Cụ Tả).

Đời thứ IV.

Cụ ông hiệu là Phúc Thiện, húy (quên) làm Tri phủ phủ Quốc Oai, khi nhà Lê mất, cụ bỏ về. Cụ bà, tên họ quê quán đều quên cả. Hai cụ được 1 con trai tức là Cụ Phúc Lương.

Đời Thứ V.

Cụ ông hiệu là Phúc Lương, húy (quên), Cụ thi đỗ hồi nhà Mạc, nhưng không ra làm quan, chỉ nhận hàm Ấm Thụ là Hiển Huệ đại phu.
Cụ bà họ Nguyễn người làng Hoa Thiều (làng Mộc). Hai cụ đwợc 2 con trai. Ông trưởng húy là Quang Tán đỗ Nho Sinh trúng thức, tức là tổ chi họ Đàm Quang ở Quảng Yên bây giờ. Ông thứ 2 tức là Cụ Phúc Trí.

Đời thứ VI.

Cụ Ông húy là Quang Tán, hiệu là Phúc Trí. Cụ Bà người Phù Khê, con gái ông Giám Sinh họ Quách. Họ này học giỏi đỗ rất nhiều đời Mạc và Hậu Lê. Hai cụ được 1 con trai là Cụ Trực An.

Đời thứ VII.  

Cụ ông húy là Hùng, tự là Quang Minh sinh năm Nhâm Thân 1592, mất năm 1634, vào ngày 21 tháng 7 năm Giáp Tuất. Sinh thời cụ được dân làng mến phục, là người hiền lành, đứng đắn, bầu làm Xã trưởng, sau được phong tặng hàm Thái Bảo, Lễ Bộ Tả Thị Lang. Cụ bà họ Đàm, húy là Quế (có chỗ nói là Khuê), người làng nhà, mất ngày 18 tháng 4 năm Mậu Thân 1668 thọ 67 tuổi. Cụ nội trợ giỏi, ở góa, khéo nuôi dậy con được thành đạt, nức tiếng hiền đức. Hai cụ được 1 con trai tức là Cụ Thuần Nhã.

Đời thứ VIII.

Cụ ông húy là Tung, tự là Lỗ Phu, hiệu là Thuần Nhã, sinh năm Giáp Tý 1624, đỗ thủ khoa thi Hương năm Bính Ngọ 1666, được lục dụng, bổ chức Giáo Thụ dạy Kinh Thư ở Quốc Tử Giám, sau được bổ làm Tri Phủ Kiến Sương. Cụ làm quan rất thanh liêm, dậy học nhiều người thành tài. Cụ mất ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Mùi 1679, sau được phong tặng hàm Tham Chính, Đô Ngự Sử, Thái Bảo.  Cụ bà họ Nguyễn, hiệu Từ Tố, người làng Yên Phụ (gần làng Hương Mặc), con gái Ông Nguyễn Khắc Khoan và cháu ngoại Ông Lan Quận Công, Thượng thư Thái Phó Nguyễn Thật, cụ mất ngày 11 tháng 10 năm Kỷ Mão 1699. Cụ là người nhân từ, thích chuyện phúc đức. Hai cụ được 4 con trai. Ông trưởng tức là Cụ Quốc Sư hiệu Trung Vĩ. Ông thứ 2 là Trung Thứ hiệu là Cương Đoán, đỗ Nho sinh trúng thức, tức là tổ chi Ông Lý Thuyết, Ông Thê Huấn vừa rồi. Con cháu Cụ Trung Thứ này có nhiều ông học giỏi như Cụ Huyên Điện Bao tên Bình Cách, Cụ Quốc Tử Giám trợ giáo tên Đoan-Trọng. Ông thứ 3 hiệu là Phúc Dụ, đỗ Nho sinh trúng thức, tức là tổ chi Ông Lý Lô, Ông Đồ Ký vừa rồi. Ông thư 4: thất tryền.

Đời thứ IX.

Cụ húy là Công Hiệu, hiệu là Mai Hiên, thụy là Trung Vĩ. Cụ đõ Sĩ Vọng, trải làm các chức Huấn Đạo, Tri Huyện, Tri Phủ. Sau vì nổi tiếng liêm chính, cương quyết và học giỏi được chúa Trịnh cứ vào trông nom dậy học đích tằng tôn là Trịnh Cương, và được thăng lên nhiều chức to như Bồi Tụng, Thị Lang, Thượng Thư, Tri Trung thư giám, Thiếu bảo Quốc Lão. gia-pha-x-dsc00051Khi Trinh Cương được lên ngôi chúa, quyền vị của cụ thật cao tột đỉnh, nhưng nhà vẫn nghèo, chỉ có mấy mái nhà tranh thấp nhỏ. Khi Cụ mất, cụ được phong là Quốc Sư Đại Vương, cho nên con cháu sau này vẫn gọi vắn tắt là Cụ Quốc. Cụ sinh ngày 24 tháng 10 năm Nhâm Thìn 1652, mất ngày 2 tháng 5 năm Tân Sửu 1721. Cụ bà họ Nguyễn, hiệu Tỉnh Thuyên, nười làng Vân Điềm, dòng dõi Cụ Thái Phó Lan, Quận Công Nguuyễn Thật, sinh năm Quý Tỵ 1653, mất ngày 6 tháng 2 năm Giáp Thân 1704. gia-pha-bia-dam-quoc-su-xx-dsc00044Hai cụ được 2 con trai. Ông trưởng tức Cụ Vụ, hiệu Đôn Hậu. Ông thư 2 húy là Công Vị mất sớm, không con.

Đời thứ X.

Cụ Ông húy là Đình Khanh, tự là Như Gia, hiệu là Đôn Hậu, đỗ Nho Sinh Trúng Thức, chỉ làm quan đến chức Tư Vụ bộ Binh rồi xin về. Cụ mất ngày 6 tháng 11 năm Bính Ngọ 1726. Cụ bà họ Nguyễn, húy Chiêm, người xã Đông Dư, huyên Gia Lâm, mất ngày 13 tháng 6 năm Giáp Dần 1734, tên hiệu là Diệu Đức. Hai cụ được 2 con trai. Ông trưởng tức là Thận Du, đỗ Nho Sinh trúng thức, làm Tri huyện Đông Yên rồi về, tức là tổ chi Cụ Huyện bây giờ, các con cháu đạo vừa rồi rất đông, nhưng ông quen biết nhiều ông Tổng Bẩy, ông Phó Thám, chú Thu, chú Khải.

Đời thứ XI.

Cụ Ông húy Đình Dung, sau đổi là Thận Trưng, tự là Như Bảo, hiệu là Ôn Phác, sinh ngày 7 tháng 6 năm Đinh Sửu 1697, lấy hàm tập ấm được bổ chức Đồng Tri phủ phủ Lạng Giang và phủ Phú Bình, rồi xin về hưu, mất ngày 20 tháng 6 năm Bính Tý 1756.
Cụ Bà họ Nguyễn húy Trương, người làng Dương Húc, huyện Tiên Đa (gần Nội Duệ) là con gái nhỏ họ Tiến Sĩ Thượng Thư Nguyễn Đương Hồ, sinh ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Ngọ 1702 và mất ngày 11 tháng 12 năm Bính Dần 1746.
Hai cụ có 4 con trai, và các bà vợ lẽ sinh được 2 trai nữa. Ông trưởng húy là Liêu, đỗ Nho Sinh trúng Thức, làm tri huyện Thanh Hà, con cháu chi này bây giờ hết cả rồi. Ông thứ 2 tức là Cụ Úy, hiệu Cương Mẫn. Ông thứ 3 tên là Thận Phó đỗ Tam Trường (Tú Tài), tức là tổ chi ông Tư Cổn, Năm Cổn, bây giờ có lẽ hết người rồi. Ông thứ 5 tên là Sứng, bây giờ con cháu suy đã lâu, chỉ còn bố con chú Cò Điệt và lũ bố con các chú Toàn, chú Khiêm. Ông thứ 6 húy là Khản, không có con trai.

Đời thứ XII.

Cụ Ông húy là Thận Nghi, hiệu là Cương Mẩn sinh năm Ất Tỵ 1725, đỗ Nho Sinh trúng thức năm 19 tuổi, vì cụ đỗ cao được bổ chức huyện Úy huyện Thọ Sương, nhưng chỉ làm quan ít lâu rồi xin về nghỉ, tính cụ phong lưu, phóng khoáng, thích chơi ngâm vịnh những thú phong cảnh đẹp nơi ruộng vườn cây cảnh. Cụ mất ngày 15 tháng 10 năm Mậu Tuất 1778, tên hiệu là Cương Mẫn.
Cụ bà họ Vũ, húy Loan, người làng Phùng Sá, huyện Thạch Thất, Sơn Tòng, con cụ Tiến Sĩ Vũ Đình Dụng là Đốc thị tỉnh Nghệ An, cụ sinh năm nào mất năm nào đều quên cả. Chỉ nhớ giỗ ngày 22 tháng Giêng. Hai cụ được 3 con trai, và cụ vợ lẽ được 2 con trai nữa. Ông con trưởng tức là Cụ Giáo Hiệu Hoẵng Nghị. Ông thứ 2 là Thân Cử, tức là tổ sinh bọn Ông Điền, và chú Trì, Hoãn vừa rồi là Tổ sinh bọn Ông Điền, và chú Trì, Hoãn vừa rồi. Ông thứ 3 tên là Đảng không con. Ông thứ 4 tên là Súy, nay hết con cháu rồi. Ông thứ 5 tên là Thận Cường, tứ là Tổ sinh ra các ông Tư Sóc, Trương Cánh, Ông Tỉnh, cá chú Cả Thiếu, chi các ông Tự, Biện Sự Đương Tinh, vừa rồi.

Đời XIII.

Cụ ông húy là Thận Vi, hiệu Hoàng Nghị sinh năm Đinh Sửu 1757, đỗ Nho Sinh trúng Thức năm 17 tuổi (khoa Giáp Ngọ 1774), vua Quang Trung bổ Cụ làm chức Thư Ký ở Cao Bằng, cụ đi làm được ít lâu thì cáo bịnh xin về. Cụ học giỏi chữ tốt, mất ngày 22 tháng 9 năm 70 tuổi.
Cụ bà họ Trần húy Nga, người làng Cao Đỉnh, huyện Từ Liêm, con Cụ Trần Hải Liễn làm Hình Bộ Viên Ngoại. Cụ mất ngày 3 tháng 10, năm sinh năm mất đều quên, chỉ biết cụ thọ 105 tuổi. Hai cụ được 3 con trai. Ông Trưởng, húy Thận Đức, tục gọi là Cụ Hàn, vì Tổng Trấn Bắc Thành hồi đó là Ông Nguyễn văn Thành chiêu tập các văn sĩ xứ Bắc làm mục khách goi là Văn Hàn, cụ được mời vào. Cụ Hàn tức là cụ sinh chi các ông Đồ Dưỡng, Đương Từ, Cả Cháu. Ông thứ 2 tức là cụ Đồ hiệu là tỉnh Oa. Ông thứ 3 tên là Hựu, sinh năm Bính Ngọ, đỗ cử nhân Khoa Đinh Mão đời Gia Long, đến cuối năm Đinh Mão đó thì mất ngày 26 tháng 12, không có con.

Đời thứ XIV.

Cụ Ông húy là Trí, sau đổi là Thận Trọng, sinh ngày 15 tháng 6 năm Qúy Mão 1783, đỗ Tú Tài Khoa Đinh Mão đời Gia Long. Vì Tú Tài khi đó quen gọi là Sinh Đỗ, nên vẫn gọi cụ là Cụ Đỗ. Cụ người linh lợi, mắt rất tinh, dậy con cháu rất nghiêm, lễ phép. Cụ mất ngày 5 tháng 9 năm Ât Sửu 1865. Cụ lấy Cụ Trẻ họ Nguyễn húy Giám Trước, hơn 10 năm sau mới lấy Cụ Già họ Nguyễn húy Liễn. Cụ Già người Vân Điềm, con cụ Tri Huyện Nguyễn… Cụ Trẻ người Xã Thanh Liệt, làng Quang, huyện Thanh Oai.
Cụ Già được 3 con trai. Ông Trưởng húy là Thận Dụng, đỗ Tú Tài tục gọi là Cụ Tú Quản, Cụ tài gồm Văn Vũ, đẫ được vua tôi Cai Vàng đón đi làm Quân Sư. Khi Cai Vàng thua chết, Cụ vì cớ là con cháu Cụ Tiết Nghĩa nên được tha. Con cháu cụ nay là chi Cụ Hậu Tảo bây giờ, có những các Ong Chất Miễu, Ông Hai Húc, Tư Kinh, Lý Sáu và chá anh BaĐương, anh Năm Triệu, anh Kính…v..v.. Ông thứ 2 húy là Mô sinh ra ông Đội Mỹ, các cháu là Ônh Vi, bà Giáo Miều, nay hết cả rồi. Ông thứ 3 húy là Đỉnh sinh ra Ônh Lý Thường, các con cháu cụ là bọn Ông Dị, Ông Cát, Ông Viêm. Cụ Trẻ được 1 con trai tức là Cụ Cử nhà ta.

Đời thứ XV.

Cụ Ông húy là Thận Cung, tự là Tư Đạo, hiệu là Lễ Hiên, sinh ngày 27 tháng 10 năm Đinh Sửu 1817, người cao lớn, mặt mày khôi ngô thanh tú, Cụ thông minh có tài học rộng chữ tốt, đỗ Cử nhân thứ 4 năm 25 tuổi, khoa Hội năm sau, cụ thi Hội đỗ thứ 5, nhưng Văn Kỳ thi Đình cụ rất hay mà bị vua xé quyển oan với quyển mấy người, thế là cụ chán sự đối đãi khinh rẻ của vua đối với học trò, cụ nhất định bỏ đường sĩ tiến, chỉ suốt đời chịu cảnh nghèo, đi dạy học ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Yên và mất ngày 3 tháng 2 năm Canh Thân 1860. Cụ Bà họ Nguyễn húy Phước, người xã Xuân Lôi, tục gọi làng Dôi, huyên Võ Giòng, con Cụ Nguyễn Huy Bính, Cử Nhân, Đốc Học, sinh năm Kỷ Mão, và mất ngày 25 tháng 5 năm Bính Dần 1866. Hai cụ được 1 con trai, tức Cụ Cố nhà ta.

Đời thứ XVI.

Cụ ông húy là Vĩnh, tự là Bá Dự, sinh ngày 3 tháng 9 năm Nhâm Dần 1842. gia-pha-nghia-dia-x-dsc00026Cụ người cao lớn mạnh mẽ, mặt mày vui tươi, linh lợi, người trên phải yêu quí, tính tình khoáng đạt hào phóng, người dưới phải mến phục. Cụ không những hào hoa, lịch sự, lại còn khảng khái, cương trực, nên trên thì các quan to đều có lòng trọng nể, mà dưới thì cả đến bọn tướng giặc cũng một lòng kính phục, bởi vậy tuy sống vào đời loạn mà vẫn được ung dung. Cụ rất thông minh, nhưng lúc trẻ phải bỏ dở sự học vì gặp cảnh nhà nhiều tai biến và tang tóc, liên miên, nhất là cụ sớm mắc chứng run tay không cầm cầm được bút viết. Năm Thành Thái thứ 10 (1904) cụ được sinh phong hàm Hàn Lâm thị Giảng, mấy ông bạn Thượng thư, Tổng Đốc khuyên cụ ra làm quan thì được bổ Tri Phủ, nhưng cụ không ra. Cụ mất ngày 15 tháng 10 năm Bính Thìn 1916. Cụ lấy Cụ Bà trước họ Nguyễn húy Ý, người Thiết Bình, làng Ngườm, con quan Bố Chính Hà Nội Ngyễn Chu Thuật, được 2 con trai. Ông Trưởng húy Liêm, tức là Cụ Đốc. Ông thứ 2 húy Chuyên ( ông nội của Đàm Thị Đán, Đàm Trung Thao, Pháp, Phán, Thang), tục gọi là Cụ Chắt, Cụ Bà rất hiền đức, lễ phép, tuy con một vị quan lớn và giầu có, nhưng rất kính trọng nhà chồng. Cụ sinh ngày 2 tháng 9 năm Tân Sửu 1841 và mấtt ngày 15 tháng 5 năm Kỷ Tỵ 1869, hiệu là Thục Hạnh.

Cụ Bà Thục Hạnh mất được 5 năm thì Cụ Ông lấy Cụ Kế thất họ Chu húy Lọ (sau đổi là Thọ), người lành Thanh Liệt (làng Quang), huyện Thanh Oai, Tỉnh Hà Đông Ở gần Hà Nội. Cụ Kế mất ngày 6 tháng 2 năm Ât Mão 1915, hiệu là Hậu Trực, Cụ Kế chỉ được 3 con gái là Bà Viên tục gọi là Bà Giáo Từ, Bà Khương, Bà Đổi, tục gọi là Bà Ấm Nành. Bà Viên lấy Ông Đặng Vũ Chiểu, người Hành Thiện Nam Định, được 7 con trai là các chú Giục, Khiêm, Tiềm, Giỏi, Lượng, Vân, Tích. Bà Khương (Bà Cô Tổ/Bà Tổ Cô thường hay phù hộ cho ĐT Phán, xin xem bài viết về Gọi Hồn của ĐT Phán ** ) không lấy chồng mất năm 29 tuổi. Bà Đổi lấy ông Nguyễn Tiến Ân, tục gọi Ông Ấm Cần, người làng Hiệp Phù, làng Nành, con ông Tuần Phủ Nguyễn Tân, được 1 trai là chú Ứng và 3 con gái là các co Nga, Thanh (tục goi là Nghé) và Thuận (tức là cô Cả Cự).
Sau Cụ lại lấy thêm cô Hầu là bà Phạm thị Thủng được 4 con trai là các ông Hanh, Khánh, Kinh (tục gọi là ông Nhỡ), Thứ (tục gọi là ông Tít) và 2 con gái là bà Diễm, tục goi cô Trĩm và bà Gia, tục gọi cô Trĩm con. Bà Diễm lấy ông Lê Đình Phổ, người làng Thụy Lôi (tục gọi làng Nhội), nên còn tên là Bà Đồ Nhội. Bà Gia (trĩm con) lấy ông Nguyễn Châu, người Hiệp Phu, nên còn gọi là Bà Hai Châu.

Sau đây kể rõ các điều về các ông con trai cụ Bá Dự (cụ ông của Đàm Thị Đán, Đàm Trung Ba, Thao, Pháp, Phán, Thang) ghi thứ tự bằng số La mã).

  1. Ông Trưởng:

Húy là Liêm (trước là Bình), tự là Nguyên Lệ, hiệu là My Trang, sinh ngày 22 tnáng 12 năm Tân Dậu 1861. Cụ yếu nhưng rất thông minh, năm lên 10 mới bắt đầu học Tam Tự Kinh (quyển sách vỡ lòng học chữ nho lúc trước), mà năm 15 tuổi đã làm được thơ phú (2 lối văn vần rất khó làm), năm 19, 20 tuổi đã nổi tiếng văn hay. Năm 25 tuổi đỗ Cử Nhân khoa Bính Tuất 1886. Khoa thi Hội Kỷ Sửu 1889 cụ đỗ Á Nguyên kỳ thi Hội, nức tiếng về bài Phú Tam Hòe đường được 7 phân, là bài phú thi Hội hay nhất triều Nguyễn, văn kỳ thi Đình của cụ cũng rất hay đáng lẽ được đỗ đến Thám Hoa, Bảng Nhỡn, nhưng vì ở câu cuối bài văn sách cụ vô ý viết sót mất 1 chữ mà bị hỏng tuột. Năm sau cụ được bổ Giáo Thụ phủ Lý Nhân ở Hà Nam, cụ đã bỏ không thi Hội khoa Nhâm Thìn 1892. Đến khoa Hội Ất Dậu 1895, vì quan Thượng Thư Hoàng Côn, tiếc tài của cụ, khuyên cụ cố thi, cụ mới miễn cưỡng đi. Tuy cụ bỏ nghề văn chương đã lâu, mà khoa này cụ đỗ Tiến Sĩ vẫn dễ dàng lắm. Đỗ Tiến sĩ rồi, cụ xin ra Huế làm quan với Nam Triều, tuy quyền lợi thiệt hơn làm quan ở Bắc Kỳ nhiều, nhưng vì cụ tránh tiếng làm quan với Tây. Năm 1898 cụ được bổ Đốc Học Khánh Hòa. Năm 1906 cụ được đổi về Đốc Học Thanh Hóa. Mấy năm sau đó, phép thi ta đổi mới, bỏ cả thơ phú, kinh nghĩa, là 3 thứ văn quí nhất, cho nên cụ sinh lòng chán nản cho nền Hán học, sắp bị suy tàn, rồi cụ suy yếu dần và đến năm Kỷ Dậu 1909 thì cụ mất vào ngày 29 tháng 2 dư.
Cụ lấy cụ Bà họ Vũ, húy Thực, người làng Hoàng Mai, làng Mơ, con Cụ Tú Vũ như Trân, cháu  cụ Nghè Vũ như Phiên, sinh được 6 con là các ông bà: 1) Thị Hinh, tục gọi là Tú Thanh, vì lấy ông Tú Tài Nguyễn Trinh Đàn, người làng Hương Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoa. 2) Duy Tập. 3) Duy Huyên. 4) Thị Phùng, tục gọi là Bà Sét, vì lấy ông Nguyễn Văn Ngọc, con thứ 3 Cụ Đốc học Nguyễn Nhiếp, người làng Thịnh Liệt, tụ gọi làng Sét. 5) Duy Hân. 6) Thị Nhã, tục gọi Cô  Bẩy, sau gọi Cô Giáo Ngọc, vì lấy ông Nguyễn Văn Ngọc, Thanh Tra tiểu học Bắc Kỳ hồi Pháp thuộc.

Hồi Giáo thụ ở Phú Lý, Cụ lại lấy cụ trẻ họ Nguyễn húy Huân, người làng Bạch San tỉnh Hà Nam, được 1 trai là Duy Trước và 1 con gái là Thị Chức, tục gọi cô Tư Tầu, vì lấy Ông Búc Tầu, con thứ tư Cụ Tuần Phú Bùi Bành ở làng Thịnh hệt.
Dưới đây kể rõ các ông con trai cụ Đốc và các cháu chắt:

A) Ông Duy Tập tự là Bá Canh (1888-1918), đỗ Tú Tài chữ nho, mất ngày 25 tháng 8 ta, lấy Bà Nguyễn Thị Nga ở Nội Duệ được 3 gái: Hạc, Cáp, Tích và 1 trai Tăng. Con trai Ông Tăng là Hiếu Cường, Hiếu Luyện, Hiếu Thiết…B) Ông Duy Huyên, tự là Thúc Hoa (1890-1945) làm Tuần Phủ, lấy bà Nguyễn thị Thi ở Nội Duệ được 9 con trai và 5 con gái là: Trung Trường, Trung Lãng, Trung Thiện, Trung Hào, Trung Đường, Trung Bảo, Trung Lưu, Trung Canh, Trung Đồn, Thị Hải, Thị Quan, Thị Dân, Thị Ninh, Thị Phú.
Ông lại lấy bà vợ lẽ là Nguyễn thị Tiểu dược 3 trai, 2 gái là Trung Phường, Trung Kiên, Trung Cố, Thị An, Thị Đoài.

Ông còn lấy cô hầu là Thị Thái, được 1 trai là Trung Giai.
Các lũ cháu nội là:
Thị Sơn, Thị Hà con anh Trường.
Hiếu Đoán, Hiếu Cẩn con anh Lãng.
Hiếu Chiến, Hiếu Thắng con anh Thiện, Hiếu Hùng, Hiếu Cường, Thị Vân, Thị Dung, Thị Mai, Thị Hạnh, các anh kia con Ông Tuần, đều ở Bắc cả, không biết con cái ra làm sao.

C) Ông Duy Hân tự là Thúc Cảnh, tục gọi ông Ba Hân (1894-1955), lấy bà Nguyễn thị Chuyên ở Nội Duệ, sinh 6 trai là Trung Thản, Trung Đê, Trung Thành, Trung Quân, Trung Kỳ, Trung Sách. Sau khi góa vợ, ông lấy thêm bà vợ lẽ ở Làng Sinh 1 trai là Trung Phụ và 2 gái là Thị Phong, Thị Quý.

Các cháu nội của Ông Ba Hân là:
Hiếu Trung, Thúy Anh, Trân Châu, Thị Ngà, Thị Thanh con anh Thản.
Hiếu Chinh con anh Đê
Hiếu Nhương, Thị Lê con anh Thành.
Hiếu Nhuệ con anh Quân.
Thị Dung, Thị Trà con anh Kỳ.
D) Ông Duy Trước, tự là Thúc Tiềm (1887-1969) tục gọi ông Giáo Sáu, lấy bà Nguyễn thị Thi người làng Đa Ngưu, huyện Văn Giang, Bắc Ninh, sinh 2 con trai và 6 con gái là: Thị Đông, Trung Tường, Thị Hương, Thị Thục, Thị Trinh, Thị Khiết, Thị Túc, Trung Chí.

Các cháu nội ông Giáo Sáu là:
Hiếu Phong, Hiếu Đức, Hiếu Dũng, Hiếu Hạnh, Hiếu Đạo, Thị… con anh Chí.
Các cháu ngoại Ông Giáo con các chị Thục, chị Trinh, chị Hương, chị Khiết, chị Túc, có đến mười mấy người, nhưng không nhớ tên.

2. Ông thứ 2 tức là Cụ Chắt ( Ông nội của Đàm Thị Đán, Đàm Trung Ba, Thao, Pháp, Phán, Thang): Xem đời XVII ở dưới

3. Ông thứ 3 tức là Cụ Cửu Hanh, vì Thủ-Bạ được thưởng hàm Cửu Phẩm, nên gọi là Ông Cửu, lấy bà Lê Thị Dậu ở Nhội (tức là em chồng bà Trĩm) sinh 4 trai và 3 gái là chú Vân, Toại, Sính, Tiêm và các cô Hấp, Cõn, Tường.
Chú Vân chết sớm, chưa vợ con.
Chú Toại lấy vợ họ Nguyễn ở Phù Khê, sinh Trung Tiêu, Trung Khiển.
Bốn chú này đều ở Bắc cả, không biết con cái còn ai nữa.
Cô Hấp không có con. Các con cô Cõn và cô Tường đều ở Bắc, nay quên cả tên.

4. Ông thứ 4 tên là Khánh, lấy vợ họ Nguyễn ở làng Ngọc Lôi (làng Lối, gần làng Me) được 3 trai và 1 gái là các chú Hưu, Khuếch, Phúc và cô Thanh.
Chú Hưu rất hiền lành, nhưng hồi năm 1949 người Pháp tấn công vào làng, bắt đi mất tích.
Chú Khuếch hiện (1974) làm đại úy ngành Cảnh sát ở Saigon, có vợ và nhiều con nhưng không biết tên.
Chú Phúc tục gọi chú Khoác, hiện (1974) làm trung sĩ ở Gia Định có vợ và 3 con gái, không biết tên.
Cô Thanh lấy chồng người làng Phù Ninh cùng huyện với làng Me, nay có vào Nam, chồng đã chết và có nhiều con, nhưng không hỏi tên.

5. Ông thứ 5 tên là Kinh, tục gọi ông Nhỡ lấy vợ người làng Vĩnh Phục (Yên Phong), Bắc Ninh, nay cả 2 ông bà đều đã chết, có 2 con trai là chú Hương, chú Đình đều ở Bắc và 4 con gái là cô Hà, cô Xuân, cô Thu, cô Chi. Cô Xuân hiện (1974) ở Saigon chồng là Đại Úy Hùng, và có 10 con trai gái đều đẹp đẽ khỏe mạnh, và đều quên cả tên.

6. Ông thứ 6 tên là Thứ, tục gọi ông Tít, lấy vợ ở làng Cói Hội phụ (1 làng văn học ở phủ Từ Xa), được 1 gái là cô Phú, và 1 trai là chú Hữu hiện nay (1974) đều ở Bắc cả, và được tin Ông Tít đã mất rồi.

Đời thứ XVII (Ông nội của Đàm Thị Đán, Đàm Trung Ba, Thao, Pháp, Phan, Thang…)

Cụ ông húy là Chuyên, tự là Tỉnh Giả, hiệu là Quả-Nghị, sinh ngày 28 tháng 3 năm Giáp Tý đời Tự Đức (1864) và mất ngày 19 tháng 10 năm Kỷ Tỵ 1929. Cụ rất thông minh và có trí nhớ lạ lùng, nhưng tiếc thay lên đậu hỏng mắt ngay từ lúc lên 7 tuổi. Cụ tuy thất học nhưng được nghe cụ Đốc dạy học ở nhà ít lâu, nên nghĩa lý chữ nho cụ hiểu nhiều và nhớ nhiều, nhất là những thơ và câu đối các quan mừng cụ Đốc giảng cho nghe, cụ đều nhớ, cả mãi đến khi gần mất, cụ đọc lại vẫn không lầm chữ nào. Cụ ăn ở trung hậu, nói năng khúc triết, phải lẽ, gặp việc khó xử, nhiều người phải ý cụ. Cụ có trí rắn rỏi quả quyết, lại có tài định liệu, điều khiển các công việc, tuy cụ xấu mắt, ngồi một chỗ, nhưng công việc trong nhà, trong họ phần nhiều do cụ chủ trương cất đặt và cụ đều quán xuyến đầu duôi, đâu vào đó cả. Khiếu tính toán và tài suy nghĩ mẹo mực về đường công nghệ của cụ cũng khó người bằng. Vì tài tính toán lại nhớ nhiều, kinh nghiêm nhiều nên những công việc làm nhà cửa, nghe kể kích thước rồi, cụ chỉ nhẩm trong nửa giờ là ra ngay số gỗ, gạch vôi ngói và công thợ. Mỗi khi Cụ Đốc nói chuyện với các quan bạn về tài trí thông minh của ông em, cụ thường tỏ vẻ thương tiếc nghậm ngùi. Cụ Đốc đi làm quan vắng, vẫn giao cho cụ phiên xử việc làng, đều được êm thắm cả, ai cũng vui theo. Cụ suốt đời làm ăn cần kiệm, có chí nuôi con cháu nối nghiệp học hành. Cụ thật là một tấm gương cần kiệm, khảng khái, trọng nghĩa, khinh tài.
Cụ bà họ Chu, tên Kim, người làng Thanh Liệt, dòng dõi vị đại nho Chu văn An đời Trần. Cụ sinh năm Giáp Tý 1864, mất đêm hôm ngày 27 tháng 10 năm…gia-pha-y-dsc00054 Cụ hiền lành thực thà, về làm bạn với cụ ông từ hồi 17 tuổi. Lúc mới về làm dâu, cụ vẫn ở với Cụ Kế ở Hà Nội (vì cụ là cháu gọi cụ Kế bằng cô con nhà chú). Sau cụ theo cụ ông về ở quê ngoại ở làng Ngườm với cụ Lớn Ngườm là bà Ngoại. Cụ Lớn thấy cháu dâu hiền ngoan, có lòng yêu lắm, nên sau cụ theo về Me cùng ở với hai vợ chồng cháu, cho mãi đến khi gần mất mới cáng cụ về mất ở nhà thờ cụ Lớn Ông ở Ngườm.
Hai cụ có 3 trai và 2 gái là: Duy Viễn, Duy Quỳ, Thị Tuyết, Duy Tạo và Thị Tề, kể theo thứ tự A B C D E dưới đây.
1.Duy Viễn, tự Cậu Chi, hiệu Cẩn Tín, sinh năm Quý Mùi 1883, mất ngày 25 tháng 5 năm Giáp Thân 1944. Ông tài hoa, văn hay, chữ tốt, vẽ khéo, nhưng tính lười, chậm, nên thi hỏng mãi. Ông lấy bà Ngô thị Lai con cụ Ngô văn Quí ở làng Lộc Hà, Phủ Từ, được 5 con gái là Thị Lưu, Thị Thước, Thị Bằng, Thị Hoàng,Thị Âu.
Thi Lưu, tục gọi chị Ba Thông, vì lấy cậu Đỗ quý Thông, con thứ 3 cụ Tú Tài Đỗ Trúc ở làng Mão Điền, Bắc Ninh, không con.
Thị Thước, tục gọi chị Cả Cói, lấy cậu Đỗ Ngọc Oánh ở làng Cói Thái Đường, được 1 trai là Đỗ ngọc Giao, cử nhân về Nhân Chủng học, hiện (1974) làm việc ở Saigon, con gái là Tiệp, chết lúc trẻ.
Thị Bằng, tục gọi là chị Hai Kiềm, lấy cậu Thẩm trọng Kiềm ở Cự Linh, Gia Lâm, không có con chết năm 1952.
Thị Hoàng, cũng lấy anh Ba Thông, được 4 gái là Uyển Như, Tố Như, Hảo Như và Diễ Như và 4 trai là Nam, Dân, Thiện,…
Thi Âu mất sớm, chưa có chồng.
2.Duy Quỳ, tự là Tử Trung, hiệu là Phác Trực, sinh năm Canh Dần 1890, mất ngày 17 tháng 7 năm Ất Dậu 1945. Ông làm ăn chăm chỉ, khóe những nghề thủ công, tính rất cương trực, được nhiều người tin cậy. Lấy bà Nguyễn thị Phức, người làng Dương Sơn (làng Trõ, cách làng Me độ 3 cây số), sinh được 3 trai là Trung Mộc, Trung Mạc, Trung Giang và 4 gái là Diếu, Minh, Quyên, Oanh.
Những cháu nội của Ông Duy Quỳ: Thị Phương, Thị Dung, Hiếu Nghiệp, Thị Phi, Hiếu Quyên, Hiếu Quả, Hiếu Cảo, Thị Loan (con anh Mộc), Thị Yến, Thị Hằng, Hiếu Bản, Hiếu Bảo, Hiếu Tông, Hiếu Long.

3.Thị Tuyết tức là Cô Tư Sét, lấy ông Tư Sét được 1 gái là Quyến.
4.Thị Tề, tục gọi cô Thừa, lấy ông Phan đình Tiến làm Thừc Phải, người làng Dặng Xá gần đô thành Bắc Ninh. Cô Tề được 2 trai là Đống, Tùng và 1 gái Thị Đào.

5. Đàm Duy Tạo (Thân phụ của Đàm Thị Đán, Đàm Trung Ba, Thao, Pháp, Phán, Thang)

Tạm Kết

Dưới đây xin chép lại bài thơ “Bài Hàng”, mỗi chữ là một chữ đệm (middle name) cho một đời (generation) của con trai giòng họ Đàm.

duy-trung-dsc00007                      duy-duy-tao-_-tho_維      忠        孝        傳         家

                       Duy   Trung   Hiếu   Truyền   Gia

                               尚        勉        思     繼      紹

                         Thượng  Miễn   Tư   Kế   Thiệu

                           

        善       衍    吉       慶         長

 Thiện   Diễn   Cát   Khánh   Trường

                           

                                先      德       有       光         耀

                            Tiên   Đức   Hữu   Quang   Diệu

Các chữ đệm này, với ý nghĩa của chúng, đã được diễn nôm trong bài thơ Bày Hàng dưới đây. Bài thơ này đã được khắc trong tấm bia đá mà chúng tôi đã may mắn chụp hình lại trong chuyến về thăm làng Hương Mặc năm 2005 .

DIỄN NÔM BÀI HÀNG

Nhà ta dòng dõi hiếu trung

Gắng công truyền nối dốc lòng chớ sai

Khéo ăn ở phúc lâu dài

Rõ ràng công đức mọi đời tổ tông

Đàm Duy Tạo

Có nghĩa là họ nhà ta đời nọ truyền cho tới đời kia chỉ có đạo trung hiếu. Ta mong rằng ai cũng nghĩ cách nối dõi cho xứng đáng. Ta phải khóe ăn ở theo đạo ấy thì mới được hưởng phúc lành lâu dài. Các công đức của tổ tiên nhờ đó sẽ được vẻ vang rực rỡ thêm.

 

Giải Thích:

<1>, <4>Hiệu hay Thụy là tên đặt lúc mất rồi để cúng.

<2> Húy là tên chính đặt từ lúc nhỏ.

<3> Truy phong hay truy tặng là chức tước vua Phong cho sau khi chết rồi.

<5> Ấm Thụ là quan hàm phong cho con cháu một quan to.

<6> Tự là tên đặt để gọi thường thay tên húy.

<7> Câu kết luận ấy là: Tố Ngã triều Liệt Thánh chỉ sở vi, “vô” phi Nghiêu Thuấn, Vũ Thang, Văn Vũ chi đạo giả. Nghĩa là: Xét lại các việc của các vua Triều ta làm không việc gì, là không phải đạo của các vua Nghiêu Thuấn, Vũ Thang, Văn Vũ vậy. Vì cụ bỏ sót chữ “Vô”, thành ra nghĩa ngược lại. Khen hóa chê. Đáng lẽ cụ bị tội to, nhưng vì văn hay lắm, nên được miễn nghị.

Trương Minh Ký, Sài Gòn

Ngày 16-6-1974

Đàm Duy Tạo

(* )     https://kimvankieu.wordpress.com/

(**)   http://chimviet.free.fr/truyenky/damphan/caydaloicu/dtpn051.htm

ANH HÙNG NGUYẾN HUỆ ĐẠI THẮNG QUÂN NHÀ THANH NĂM KỶ DẬU 1789

Lời mở đầu:

Xin cám ơn GS Trần Gia Phụng đã gửi cho chúng tôi bài viết này để chúng ta và con cháu chúng ta biết thêm về  vị anh hùng dân tộc cùng binh lính Việt Nam đã chiến thắng quân lính nhà Thanh như thế nào .

Xin mời đọc

quang-trung-2

TRÒ CHUYỆN VỚI

NHÀ NGHIÊN CỨU SỬ HỌC TRẦN GIA PHỤNG

VỀ CHIẾN THẮNG NĂM KỶ DẬU 1789

1.-   Hồng Phúc (câu hỏi số 1): .Thưa anh Phụng, năm nay là năm Đinh Dậu, chúng ta không sao quên được một năm Dậu trong lịch sử dân tộc, là năm Kỷ Dậu 1789, năm mà Vua Quang Trung đại phá quân Thanh vào ngày Mồng Năm Tết tại Thăng Long.  Trước hết, xin anh cho nghe khái quát về nguyên nhân cuộc chiến vẻ vang này được diễn ra như thế nào?

Trần Gia Phụng (trả lời câu số 1):  Thưa anh Hồng Phúc, trước hết, tôi xin cảm ơn anh Hồng Phúc mở cuộc nói chuyện nhân dịp đầu năm Đinh dậu (2017) chung quanh đề tài rất thích hợp là vua Quang Trung và người Việt đã chiến thắng cuộc xâm lăng của Trung Hoa năm Kỷ dậu 1789, cách đây 228 năm.

Trước khi vào chuyện, theo cách thông thường của người xưa, năm nay gọi là năm con gà, tôi xin mời anh Hồng Phúc và quý thính giả nghe một câu chuyện vui có thật về con gà.  Chuyện có thật trong quá khứ, chứ không phải là chuyện bịa đặt đâu nghe anh Hồng Phúc.  Câu chuyện như sau:

Nguyên khi chiến tranh bùng nổ năm 1946, nhà văn Phan Khôi đang ở Hà Nội  Ông là một nhà văn rất nổi tiếng vào thời đó.  Việt Minh cộng sản sợ ông bỏ về phía Pháp, nên bắt và đưa ông tản cư lên chiến khu Việt Bắc của CS, sống biệt lập ở trên đó suốt 9 năm.

Sau hiệp định Genève năm 1954, nhà văn Phan Khôi bị CS đưa về sống ở Hà Nội để dễ kiểm soát.  Một hôm, có một người bạn mời ông ăn cơm, trong đó có món thịt gà.  Sau khi cầm đũa, Phan Khôi chỉ dĩa thịt gà nói rằng: “Chà chả, chin (9) năm nay, từ khi đi tản cư chạy loạn cho đến bây giờ, tau mới lại gặp mày.”  Như thế nghĩa là trong 9 năm tản cư, Phan Khôi chưa được lần nào thưởng thức món thịt gà, huống gì là thịt heo, thịt bò.  Chuyện nầy được kể lại trong mục về Phan Khôi, sách Trăm hoa đua nỡ trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí, xuất bản năm 1959 ở Sài Gòn.

Hồng Phúc:  Vâng, cảm ơn anh, nay chúng ta trở lại với chủ đề cuộc nói chuyện.

Trần Gia Phụng:  Vâng thưa anh, thưa bà con nghe đài, xin bắt đầu với câu hỏi “mở hàng” đầu năm của anh Hồng Phúc.  Nguyên nhân cuộc chiến năm Kỷ dậu 1789 bắt đầu từ việc năm 1788, sau khi bị quân Tây Sơn tấn công, hoàng gia nhà Hậu Lê bỏ chạy khỏi Thăng Long, mỗi người một ngã.  Tháng 7 năm đó, từ Cao Bằng, bà thái hậu tức mẹ của vua Lê Chiêu Thống, đem theo con của nhà vua, cùng một số quan lại, chạy qua Long Châu (Long-Tcheou) cầu cứu với nhà Thanh bên Trung Hoa.  Xin chú ý là thân mẫu Lê Chiêu Thống cầu cứu chứ không phải Lê Chiêu Thống.

Viên tri châu Long Châu là Trần Tốt trình lên thượng cấp của y là Tôn Vĩnh Thanh, tuần phủ Quảng Tây, và Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây).  Tiếp đó, bà thái hậu cùng với cháu nội đến Nam Ninh, trực tiếp gặp hai người nầy cầu viện.  Sau cuộc hội kiến với bà thái hậu nhà Lê, Tôn Sĩ Nghị làm sớ trình với vua Thanh Cao Tông (trị vì 1736-1795), tức vua Càn Long (Ch’ien-lung), xin đem quân lấy cớ khôi phục nhà Lê, rồi nhân đó chiếm luôn nước Đại Việt tức nước Việt Nam sau nầy.  Đây là một cơ hội tốt mà vua Thanh Càn Long đang chờ đợi, vì ba lẽ:

Thứ nhứt lúc bấy giờ dân số Trung Hoa tăng trưởng rất cao.  Đất đai canh tác thiếu; triều đình nhà Thanh phải tìm kiếm thêm đất để di dân.  (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc tập 2, Tp.HCM: Nxb.Văn Hóa,1997, tr. 197.)

Thứ hai, Thanh Càn Long là ông vua đầy tham vọng đế quốc.  Ông gởi quân mở rộng biên cương phía bắc và phía tây, rất tự hào rằng ông đã lập được nhiều chiến công lẫy lừng.  Gần nhứt, vào năm 1787, ông cử Phúc Khang An đem quân chiếm đảo Đài Loan.  Sau đảo Đài Loan, Thanh Càn Long nhìn xuống Đại Việt và Đông nam Á, chờ đợi thời cơ tiến chiếm vùng nầy.

Thứ ba, năm 1790, Càn Long sẽ làm lễ “bát tuần khánh thọ” (mừng 80 tuổi).  Càn Long muốn tìm kiếm một chiến công ở ngoài biên cương để tăng thêm hào quang rực rỡ của triều đại của mình.

Nhân dịp bà mẹ vua Chiêu Thống cầu viện, Thanh Càn Long liền chụp lấy cơ hội, quyết định cử Tôn Sĩ Nghị làm tổng chỉ huy cuộc viễn chinh, trực tiếp đứng đầu cánh quân Lưỡng Quảng, tiến vào Đại Việt bằng đường Lạng Sơn; còn đề đốc Ô Đại Kinh dẫn quân Vân Nam và Quý Châu vào Đại Việt bằng đường Lào Cai, theo đường sông Hồng thẳng xuống Thăng Long.  Thanh Càn Long còn chuẩn bị cả việc đánh chiếm luôn xuống tới Thuận Hóa tức Thừa Thiên ngày nay.

Quân nhà Thanh xâm lăng, thì quân Đại Việt, lúc đó do nhà Tây Sơn lãnh đạo, tổ chức ứng chiến để bảo vệ đất nước.  Đó là nguyên nhân hết sức khái quát đưa đến cuộc chiến năm 1789.

2.-   Hồng Phúc (câu hỏi 2):  Một vấn đề gây tranh cãi lâu nay là nhà Thanh đưa bao nhiêu quân để xâm lăng Đại Việt?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 2):  Câu hỏi rất hay, anh Hồng Phúc, vì lâu nay nhiều dư luận tranh cãi về việc nầy.  Ở đây, tôi chí xin đưa ra tài liệu.  Rồi xin bà con thẩm định.  Có ba nguồn tài liệu khác nhau:

1)  Thứ nhứt, tài liệu Trung Hoa:  Theo Cao Tông thực lục, bộ sử của triều đình nhà Thanh, thì cánh quân Lưỡng Quảng của Tôn Sĩ Nghị gồm một vạn người (10,000). (Cao Tông thực lục, Hồ Bạch Thảo dịch, quyển thượng, New Jersey: 2004, tr. 47.) (Cao Tông là niên hiệu của vua Càn Long nhà Thanh.)

Cũng theo Cao Tông thực lục, ở phía tây, đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh đem 5,000 quân qua đường sông Hồng. (Cao Tông thực lục, bản dịch tr. 77.)  Như thế, theo chính sử Trung Hoa, tổng số quân Thanh cả hai cánh là 15,000 người.  Tài liệu nầy không nhắc đến số quân do Sầm Nghi Đống ở Điền Châu lãnh đạo, mà các tài liệu Trung Hoa không biết đi khi nào và bao nhiêu quân.  Ngoài ra, trong cuộc viễn chinh lần nầy của nhà Thanh, Tôn Vĩnh Thanh chỉ huy đoàn tiếp liệu, chuyển vận lương thực cũng rất đông đảo.

Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên (Wei Yuan, 1794-1857), một sử gia Trung Hoa, chép rằng “Tiếng rằng đại binh có vài chục vạn”, tức vài trăm ngàn người.  (Hoàng Xuân Hãn dịch bài “Càn Long chinh vũ An Nam ký” nghĩa là “Bài ghi việc đánh dẹp An Nam đời Càn Long”, trong sách Thánh vũ ký, đăng trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 1342.) [Sách nầy thường được gọi là Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập II.]

2)  Theo tài liệu trong nước:Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 13, tóm tắt đại lược hịch của Tôn Sĩ Nghị, có viết rằng họ Tôn: “điều động năm mươi vạn quân thẳng tới La thành [Thăng Long]…” (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, viết tắt HLNTC, chữ Nho, Hà Nội: bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Nxb. Văn Học, 1987, tập 2, tr. 153.)  Năm mươi vạn nghĩa là 500,000 quân.  Con số nầy lớn quá, do người Thanh tuyên truyền kể thêm, để binh sĩ hăng hái ra đi.

Trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa” của vua Quang Trung, do Ngô Thời Nhậm soạn có đoạn viết: “Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời thế làm việc cách mệnh, dùng binh lính bình định thiên hạ.  Viên Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị các người, tài đong đấu ra, nghề mọn thêu may, không biết những điều chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem 29 vạn quân ra khỏi cửa quan, vượt núi trèo đèo, vào sâu hiểm địa, xua lũ dân vô tội các ngươi vào vòng mũi tên ngọn giáo.  Đó đều là tội của viên Tổng đốc nhà các ngươi.” (Ngô Thời Nhậm, “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa”, trong Hàn các anh hoa, bd trong sách Ngô Thời Nhậm tác phẩm, [chữ Nho], Mai Quốc Liên cùng một số tác giả phiên dịch, Hà Nội: Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, Nxb. Văn Học, tr. 190.)

Con số 29 vạn viết trên đây tuy do Ngô Thời Nhậm, người trong cuộc đưa ra, nhưng trong một văn thư có tính tuyên truyền, thì cũng chưa hẳn sát với thực tế.  Có tài liệu thì viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt lên khoảng hai mươi vạn tức 200. 000 quân. (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đại Nam, Hoa Ky: tái bản không đề năm, tt.159, 185.)

Các số liệu nầy từ hai phía Việt cũng như Trung Hoa đều cần phải nghiên cứu lại.  Theo tâm lý thông thường, do tinh thần yêu nước, sử liệu Trung Hoa thường hạ số liệu quân đội viễn chinh xuống, để khi chiến thắng thì chiến thắng có giá trị, vì đem ít người mà vẫn thắng trận, còn khi thất bại thì thất bại không đáng kể, vì đem ít quân nên mới thất bại. Về phía người Việt cũng thế, tang số quân xâm lăng để chiến thắng thì oai hung, còn thất bại thì chẳng có gì lạ vì quân địch đông quá.

Ngoài ra, có một điều đáng chú ý về số lượng quân Thanh:  Trong “Tám điều quân luật” trước khi  quân Thanh xuất chinh năm 1788, Tôn Sĩ Nghị đã thông báo như sau trong điều thứ 8: “Lần nầy hành quân xa xôi qua biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu.  Các viên coi quân cần hiểu dụ trước cho mọi người biết...”  (HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tt. 152, 179.)

Như thế, nếu theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh sang Đại Việt tối thiểu cộng lại là 15.000 người; và nếu mỗi quân nhân được quyền đem theo một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị), thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 30,000.  Cần chú ý là các tướng lãnh và sĩ quan Thanh chắc chắn mỗi người đem theo hơn một người phu.  Ngoài ra, còn có đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩnh Thanh.  Đoàn nầy không thể dưới 10,000 người. (Cao Tông thực lục, bản dịch. tr. 123.)  Ba số liệu nầy cộng lại đã được 40,000 người. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế phải cao hơn nữa.

3)  Nguồn tài liệu thứ ba về chiến tranh Việt Hoa năm 1789 do người Tây phương có mặt ở nước ta đưa ra.  Thứ nhứt là Nhật ký của Hội Truyền giáo ở Bắc Kỳ về những sự kiện ở trong địa phận Giáo hội Bắc Kỳ từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789. Theo tài liệu nầy, khi Tôn Sĩ Nghị làm lễ phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), tức lúc đó quân Thanh đã vào đến Thăng Long, tài liệu nầy cho biết số quân Thanh là 280.000 người (28 vạn), một nửa đóng trong thành phố, một nửa đóng ở bên kia sông. (Đặng Phương Nghi dịch, Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, tập san Sử Địa 9-10, Sài Gòn: 1968, tt. 213, 216.)

Số 28 vạn quân Thanh của tài liệu nầy gần với số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đã viết trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa” (đã trình bày ở trên).

Tài liệu Tây phương thứ hai do J. Barrow viết.  Ông nầy đến nước ta năm 1792, ba năm sau chiến tranh.  Trong hồi ký của mình, ông viết rằng số quân Thanh là 100,000 người.  (J. Barrow, A Voyage to Cochinchina in the year 1792 and 1793, London: 1806, tr. 252.)

Tài liệu Tây phương thứ ba của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) đến Bắc hà khoảng năm 1790, viết trong hồi ký xuất bản ở Paris năm 1812 rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40,000 người và bị giết tại trận khoảng 20,000 người.  Giáo sĩ De la Bissachère ở lại Bắc hà cho đến năm 1798, nên có thể ông thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt. (M. De la Bissachère, Etat actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho, Paris: 1872, tt. 169-170.)  Cá nhân tôi nghĩ con số của giáo sĩ nầy là hợp lý nhứt.

3.-  Hồng Phúc (câu hỏi 3):  Thứ đến, xin anh Phụng cho nghe về chiến lược và chiến thuật đã được Vua Quang Trung áp dụng trong trận đánh này ra sao?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 3):  Chiến lược tổng quát lúc đầu của quân đội Tây Sơn chống giặc Thanh xâm lược do các các nhà lãnh đạo Tây Sơn ở Bắc hà vạch ra, đó là đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân và một cựu quan nhà Lê ra cộng tác với nhà Tây Sơn là Ngô Thời Nhậm.  Khi Nguyễn Huệ rút về Phú Xuân năm 1787, giao cho ba ông nầy cai quản Bắc hà.

Khi được tin quân Thanh sửa soạn tiến vào nước ta, một mặt các ông cấp báo về Phú Xuân cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ biết, lúc đó Nguyễn Huệ chưa lên ngôi vua; một mặt khác các ông kiếm cách hoãn binh với quân Thanh.

Để hoãn binh, Ngô Thời Nhậm viết thư cho Tôn Sĩ Nghị.  Ngưòi đứng tên trên thư nầy là đại tư mã Ngô Văn Sở, trần tình với Tôn Sĩ Nghị về tình hình nước Nam, nói rằng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ chỉ muốn dẹp Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng vua Lê Chiêu Thống bị Chỉnh đưa đi trốn, nay không biết ở đâu, nên lập Lê Duy Cận coi việc nước và xin Tôn Sĩ Nghị dừng binh.  (Ngô Thời Nhậm tác phẩm, sđd. tt. 304-306.)   Tôn Sĩ Nghị trình về triều đình nhà Thanh thư của tướng Tây Sơn.  Thanh Càn Long không chấp thuận, ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị tiếp tục tiến quân.

Lúc đó lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà chỉ khoảng 3,000 quân do Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ để lại trước khi rút về Nam.  (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đại Nam, Hoa Kỳ, tái bản không đề năm, tr. 151.)

Có thể từ kinh nghiệm lịch sử thời nhà Trần vào thế kỷ 13, khi quân Mông Cổ tấn công ào ạt thì các vua Trần rút lui, rồi sau đó mới tổ chức phản công.  Nhóm lãnh đạo Tây Sơn ở Bắc hà đã theo kế hoạch do Ngô Thời Nhậm đưa ra, quyết định lui binh để bảo toàn lực lượng và cấp báo về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân.  Ngô Văn Sở cử Phan Văn Lân đem quân cản bước tiến của người Thanh.

Trong thời gian Nội hầu Phan Văn Lân cầm cự, cản trở và làm chậm bước tiến của quân Thanh, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhậm rút lui toàn bộ lực lượng thủy bộ Tây Sơn được an toàn về núi Tam Điệp (tức đèo Ba Dội) ở Ninh Bình, đóng quân ở những vị trí hiểm yếu then chốt từ vùng đồi núi ra tới bờ biển vùng đảo Biện Sơn, để đề phòng quân Thanh tiến đánh, rồi chờ đợi tin tức Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang còn ở Phú Xuân.

Về phần Nguyễn Huệ, khi được tin quân Thanh xâm nhập nước ta vào đầu tháng 11 âm lịch năm mậu thân (1788), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ liền nhân cơ hội nầy, quyết định lên ngôi vua.  Sau khi chuẩn bị triều nghi, sắp đặt việc bảo vệ Phú Xuân, Nguyễn Huệ chính thức lên ngôi vua ngày 25 tháng 11 Mậu thân (22-12-1788), chọn niên hiệu là Quang Trung (có nghĩa là ánh sáng trung tâm).  Lễ đăng quang được tổ chức tại núi Bàn (Bàn Sơn), làng An Cựu, một ngọn đồi thấp, sát bên cạnh và thấp hơn núi Ngự Bình.  Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thời Nhậm soạn, dù lúc đó, Ngô Thời Nhậm đang ở Tam Điệp, Ninh Bình.

Ngay sau lễ đăng quang, vua Quang Trung liền kéo quân bắc tiến, tức cùng ngày 25 tháng 11 âm lịch (22-12-1788).  Chiến thuật hành quân sở trường của vua Quang Trung là tấn công bất ngờ và thần tốc.

Di chuyển trong bốn ngày, lực lượng Tây Sơn dừng quân tại Nghệ An ngày 29 tháng 11 (âm lịch).  Tại đây, vua Quang Trung mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đến hội kiến.  Nguyễn Thiếp là một danh sĩ đất Nghệ An.  Trong cuộc gặp gỡ, nhà vua bàn luận với Nguyễn Thiếp kế hoạch hành quân.  Nguyễn Thiếp nói: “Người Thanh ở xa tới, mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thủ thế nào.  Và nó có bụng khinh địch.  Nếu đánh gấp đi thì không ngoài 10 ngày sẽ phá tan.  Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó.” (Hoàng Xuân Hãn toàn tập tập II, tr. 1052.]

Lời bàn của Nguyễn Thiếp rất hợp ý với vua Quang Trung.  Lo việc tuyển quân mười ngày ở Nghệ An và Thanh Hoa (sau nầy là Thanh Hóa), vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng chạp (5-1-1789).  Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), nhà vua đến Tam Điệp.

Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà do đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua.  Nghỉ ngơi tại Tam Điệp thêm mười ngày, vua Quang Trung mở cuộc tấn công ào ạt gấp rút trong tối 30 Tết, liên tiếp trong năm ngày sau đó để thanh toán chiến trường, chứng tỏ vua Quang Trung đã được tin tình báo từ Thăng Long cho biết cáo thị của quân Thanh về việc động binh xuất hành năm mới vào ngày mồng 6 Tết.

Hồng Phúc:  Anh nói sao? Quân Thanh cáo thị cho biết sẽ xuất quân mồng 6 Tết à?

Trần Gia Phụng:  Vâng thưa anh, Tôn Sĩ Nghị công khai cáo thị tại Thăng Long mời dân chúng đến xem quân Thanh sẽ ra quân tiêu diệt lực lượng Tây Sơn bắt đầu vào mồng 6 Tết Kỷ Dậu. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc Kỳ, Sử Địa số 9-10, tt. 223-224.)  Kể cũng lạ.  Hành quân mà còn xem bói, coi quẻ ngày tốt xấu, như người ta làm lễ động thổ, rồi báo cho dân chúng biết.

4.-  Hồng Phúc (câu hỏi 4):  Thưa anh Phụng.  Tôi được biết trong chiến thắng Kỷ Dậu, vua Quang Trung đã phối hợp giữa tượng binh và pháo binh.  Đây là một lối đánh khá mới lạ vào thời đó  Anh vui lòng trình bày rõ hơn về chiến thuật nầy và cho biết hiệu quả nó ra sao?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 4):  Vâng, thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả.  Trong trân đánh đuổi quân Thanh năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung đã phối hợp  tượng binh và pháo binh để công thành.  Đây là một chiến thuật mới lạ vào thời đó và là một chiến thuật bất ngờ với quân Thanh.

Chúng ta biết được chiến thuật phối hợp giữa tượng binh (quân voi) và pháo binh của vua Quang Trung là do chính tài liệu của sử gia nhà Thanh là Ngụy Nguyên viết ra năm 1842 trong sách tựa đề là Thánh vũ ký, kể về những chiến trận thời vua Càn Long.  Trong sách nầy, quyển thứ sáu, có chương “Càn Long chinh vũ An Nam ký” (Bài ghi việc đánh dẹp An Nam đời Càn Long), có đoạn ghi về trận Ngọc Hồi được Hoàng Xuân Hãn dịch ra như sau: “Đang đêm thình lình có tin báo rằng quân Nguyễn tới đông.  Bấy giờ mới thảng thốt ngăn địch.  Giặc đều chở đại bác bằng voi mà xông trận.  Quân ta ít chống nhiều, không địch nổi.  Trong đêm tối, tự dày xéo lẫn nhau.”  (Hoàng Xuân Hãn toàn tập tập II, tr. 1344.)

Tác giả Ngụy Nguyên không viết nhiều và không đi sâu vào chiến thuật phối hợp tượng binh và pháo binh của nhà Tây Sơn vì Ngụy Nguyên là một người viết sử của nhà Thanh, nên ông không muốn đề cao chiến thắng của quân Đại Việt.

Không có tài liệu nào đặc biệt về võ khí của quân Thanh.  Trong “Tám điều quân luật” trước khi quân Thanh lên đường viễn chính, Tôn Sĩ Nghị tự tin súng ống của quân Thanh hơn hẳn súng “phun lửa” của quân Tây Sơn (điều thứ 5), nhưng họ Tôn tỏ ra rất sợ tượng binh (voi trận) của quân Tây Sơn.  Điều nầy chứng tỏ ông ta có nghiên cứu về quân đội Tây Sơn.  Ông đã dạy cho lính Thanh cách đối phó với tượng trận (điều thứ 4). (HLNTC, tập 2, tr. 148-150.)

Quân Thanh có đoàn kỵ binh thiện chiến nhưng không có tượng binh vì không thể đưa voi trận từ Trung Hoa qua Đại Việt.  Đội tượng binh ở Thăng Long của vua Lê và chúa Trịnh đã bị Nguyễn Huệ đưa về nam sau cuộc bắc tiến lần thứ nhất năm 1786. (Gabriel Devéria, Histoire des relations de la Chine avec l’Annam-ViệtNam, Paris: Ernest Lebroux, Éditeur, Librairie de la Société Asiatique de l’École des Langues Orientales Vivantes, 1880, tr. 17)

Về phần lực lượng Tây Sơn, theo sách Lê quý dật sử, đội tượng binh Tây Sơn được đem từ Thuận Hóa ra Thăng Long. Lương thực hàng tháng của các thớt voi tùy theo trọng lượng từng thớt voi lớn nhỏ. (Lê quý dật sử [chữ Nho], khuyết danh, Phạm Văn Thắm dịch, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1987, tr. 87, 96.)  Các khẩu đại bác đã được di chuyển theo quân đội Tây Sơn cũng từ Thuận Hóa, vì tại đây Nguyễn Hoàng đã lập đội pháo binh mạnh me, đã từng đem ra Thăng Long giúp vua Lê dẹp loạn năm 1593. (Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, bản dịch. tập 3, tr. 185.)  Sau đó các chúa Nguyễn đã tổ chức lò đúc súng tại Phường Đúc, làng Dương Xuân Thượng, Phú Xuân (Huế ngày nay).

5.-  Hồng Phúc (câu hỏi 5):  Vào thời đó, có nước nào biết phối hợp tượng binh và pháo binh chưa anh Phụng?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 5):  Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả, việc phối hợp tượng binh và pháo binh đã có từ nhiều thế kỷ trước ở  Miến Điện, hay ở Thái Lan.  Quân đội hai nước nầy đã dùng voi chở đại bác ra chiến trường.  Điều nầy chúng ta dễ thấy trong các sách về voi trên thế giới, hay voi ở Miến Điện hay ở Thái Lan.

Một câu hỏi đặt ra mà cho đến nay tôi vẫn chưa tìm ra được câu trả lời là vua Quang Trung học được chiến thuật nầy khi nào, và từ đâu.  Trong sự nghiệp quân sự của vua Quang Trung, đây là lần đầu tiên nhà vua phối hợp giữa tượng binh và pháo binh.  Trong cuộc nội chiến với người anh là Nguyễn Nhạc sau khi ra bắc trở về năm 1787,  Nguyễn Huệ đã đặt đại bác trên các mô đất cao ngoài Hoàng đế thành, tức thành Quy Nhơn, bắn vào khiến Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc lung túng, chịu nhượng bộ.  Như thế là lúc đó, Nguyễn Huệ chưa đặt đại bác lên lưng voi mà đặt đại bác trên các mô đất để tấn công.  Vua Quang Trung chỉ sử dụng đại bác trên lưng voi lần đầu trong trận đánh vào đầu năm 1789.

Ngoài ra, vua Quang Trung học chiến thuật nầy từ ai, thì hoàn toàn không thể biết được.  Phải chăng từ người Xiêm (tức người Thái) trong trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút gần Mỹ Tho (Định Tường) năm 1784? [Nước Xiêm chính thức đổi thành quốc hiệu Thailand tức Thái Lan năm 1939.]  Hay là vua Quang Trung học được từ những người Âu Châu mà nhà vua đã từng liên lạc ngoại giao?  Cũng hoàn toàn không có tài liệu gì về việc nầy.

6.-  Hồng Phúc (câu hỏi 6):  Chúng tôi còn nghe Vua Quang Trung có sáng kiến làm những lá chắn bằng gỗ và rơm để che chắn cho binh sĩ khi xông trận. Mời anh trình bầy lại việc này.

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 6):  Vâng thưa anh Phúc, chuyện đó là chuyện thật, nhưng có hai cách giải thích khác nhau.  Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi tấn công đồn Ngọc Hồi sáng mồng 5 Tết, vua Quang Trung cho lấy 60 tấm ván, ghép ba tấm thành một bức lớn, bện rơm (ngọn cây lúa bị cắt khi gặt) thấm nước bao bọc ở ngoài, 10 người khiêng một bức, tất cả có 20 bức đi trước. (HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 183.)  Tiếp theo mỗi bức ván lớn làm mộc che là 20 quân sĩ mang đầy đủ võ khí, dàn hàng ngang tiến tới để xâm nhập vào thành đánh cận chiến.

Tuy nhiên, theo tài liệu của Trung Hoa, vua Quang Trung không dùng ván, mà dùng rạ (thân cây lúa còn lại sau khi gặt), bó thành bó tròn lớn làm mộc, lăn chạy trước, theo sau là khinh binh tấn công rất dũng mãnh.  (Cao Tông thực lục, bản dịch đã dẫn, tr. 144,)

Giữa hai cách giải thích trên đây thì cá nhân tôi tin ở Hoàng Lê nhất thống chí, vì sách nầy do người trong gia đình Ngô gia văn phái viết lại, tức người trong gia đình của Ngô Thời Nhiệm tường thuật.  Ngô Thời Nhiệm là người tham mưu cho vua Quang Trung và đã tham dự trực tiếp cuộc chiến nầy.  Hơn nữa, rơm dễ kiếm hơn rạ, và tấm ván mới đủ cứng cáp làm thành cái khiên để che chắn cho binh sĩ tiến lên.

7.-  Hồng Phúc (câu hỏi 7)  Và bây giờ thì mời anh cho nghe toàn bộ cuộc hành quân này của Vua Quang Trung từ Phú Xuân ra Bắc diễn tiến ra sao?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 7):  Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả, tôi xin chia thành ba phần để trả lời, đó là: 1) Lực lượng quân Tây Sơn. 2) Kế hoạch hành quân.3) Diễn tiến trận đánh.

1) Về lực lượng quân Tây Sơn:  Khi vua Quang Trung kéo quân ra đi sau lễ đăng quang ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), thì lực lượng không được rõ.  Ông đến Nghệ An ngày 29 tháng 11 (26-12-1788).  Nhà vua dừng quân tại đây để tuyển thêm tân binh ở vùng Thanh Hoa, Nghệ An và sắp đặt lại đội ngũ.  Trong cuộc tuyển binh cấp tốc nầy, cứ ba suất đinh lấy một người.  Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “… chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ.”(HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 179.).  Theo Cương mục, bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, thì “khi qua Nghệ An và Thanh Hoa, [Quang Trung] lấy thêm quân lính đến 8 vạn người...” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội: bản dịch tập 2 của Viện Sử học, Nxb. Giáo Dục, 1998. tr. 845.)  Theo một bộ sử khác, cũng của nhà Nguyễn, tổng cộng số lính trước sau khoảng hơn mười vạn quân (100.000) và mấy trăm con voi chiến. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, Huế: bản dịch tập 2 của Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 517.)

Các số liệu nầy có thể đã được thổi phồng đôi chút, nhưng ở mức độ nào thì cũng không có cơ sở để xác minh.  Cần chú ý là lúc đó dân số vùng từ Quảng Nam ra Thanh Hoa trong vùng cai trị của vua Quang Trung khoảng gần một triệu người (và riêng Bắc hà khoảng năm triệu rưỡi người). (Li Tana, Nguyễn Cochinchina, Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, New York: Cornell University, 1998, tr. 159.)

Vua Quang Trung chia quân làm hai hạng: hạng thiện chiến gồm lính Thuận Quảng đã được huấn luyện lâu ngày và nhiều trận mạc; hạng tân tuyển gồm tân binh Thanh Nghệ.  Quân Thuận Quảng chia làm 4 doanh: tiền, hậu, tả, hữu, và dùng quân Thanh Nghệ làm trung quân.

Về võ khí và sắc phục quân Tây Sơn được một tác giả đồng thời với sự kiện mô tả lại trong Lê quý dật sử như sau: “Tây Sơn cho quân mặc áo màu, phần nhiều là màu đỏ tía, trên đỉnh nón mũ đính lông chiên đỏ, lại thường mặc áo gấm màu.  Binh khí của họ thường dùng hỏa tiễn hỏa sào buộc trên đầu ngọn giáo, gọi là hỏa hổ [tức súng phun lửa]…” (Lê quý dật sử, bản dịch đã dẫn, tr. 77.)  Điểm đặc biệt của quân đội Tây Sơn, được sách Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên (Trung Hoa) ghi lại là “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”. (đã nói ở trên)

Trong chiến công năm 1789, có một điểm không thể thiếu sót là ngành tình báo chiến lược.  Sau khi rút lui khỏi Thăng Long, đại tư mã Ngô Văn Sở để lại nhiều điệp viên theo dõi tình hình tiến quân của lực lượng Tôn Sĩ Nghị và báo cáo đầy đủ lại cho các chủ tướng Tây Sơn.  Trong khi đó, ngược lại, quân Thanh không có đường dây tình báo, nên có thể nói là ít hiểu biết về quân đội Tây Sơn, cũng như không nắm vững các cuộc chuyển quân của lực lượng vua Quang Trung.  Chẳng những thế, quân Thanh lại còn kiêu căng, xem thường sức mạnh đối phương.

2) Về kế hoạch hành quân:  Ngay sau lễ đăng quang và duyệt binh ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), nhà vua tức tốc dẫn quân bắc tiến.  Di chuyển trong bốn ngày, Tây Sơn dừng quân tại Nghệ An ngày 29 tháng 11 (âm lịch).  Lo việc tuyển quân mười ngày ở Nghệ An và Thanh Hoa, vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng chạp (5-1-1789).  Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), nhà vua đến Tam Điệp.

Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà do đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua.  Nghỉ ngơi tại Tam Điệp cũng mười ngày, được tin tình báo cho biết quân Thanh sẽ  xuất hành năm mới vào ngày mồng 6 Tết, nên vua Quang Trung mở tiệc khao quân tại Tam Điệp ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), tuyên bố ăn Tết trước khi lên đường, hẹn ngày mồng 7 năm mới, sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc mừng chiến thắng.  (HLNTC sđd. tr. 182.)

3) Diễn tiến các trận đánh: Có thể ngắn gọn như sau:

  1. a) Trận Sơn Nam: Tối hôm đó (30 Tết), quân Tây Sơn vượt sông Giản ở Ninh Bình.  Đến Sơn Nam, trấn thủ Hoàng Phùng Nghĩa (có sách chép Lê Phùng Nghĩa), tướng của vua Lê Chiêu Thống, bỏ chạy.  Các toán thám tử của quân Thanh đều bị quân Tây Sơn chận bắt giết sạch. (Cao Tông thực lục, 143.)  Vì vậy, tin tức trận Sơn Nam không lọt về Thăng Long.
  1. b) Trận Hà Hồi: Vua Quang Trung thúc quân tiếp đến Hà Đông.  Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28-1-1789), nhà vua cho quân vây kín đồn Hà Hồi (Hà Đông), rồi ra lệnh các tướng đặt loa hô lớn; quân sĩ đồng thanh đáp ứng vang trời.  Quân trong thành nghe lớn tiếng, sợ hãi xin hàng.
  1. c) Trận Ngọc Hồi: Sau Hà Hồi, lực lượng Tây Sơn tiến đến Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì) sáng sớm mồng 5 Tết (30-1-1789). Đây là phòng tuyến chính của quân Thanh để bảo vệ Thăng Long.  Vua Quang Trung biết quân Thanh phòng thủ ở đây khá kiên cố, trên thành có đại bác và chung quanh thành có địa lôi (mìn = landmine) bảo vệ.

Nhà vua sắp đặt cách tấn công như sau: Đi đầu là tượng binh gồm 100 thớt voi to khỏe (theo Cao Tông thực lục), trong đó có một số voi trang bị súng thần công (theo Thánh vũ ký), vừa bộ chiến tấn công, vừa phá thế trận địa lôi bao quanh thành Ngọc Hồi, vừa dùng thần công trực xạ phá thành.  Sau tượng binh là toán cảm tử xung phong. Nhà vua cho dùng những tấm ván làm mộc che chắn, để quân sĩ mang đầy đủ võ khí, dàn hàng ngang tiến tới.

Cuộc tấn công đồn Ngọc Hồi khai diễn sáng sớm mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789).  Trong thành, quân Thanh bắn súng ra dữ dội, nhưng quân Tây Sơn nhất quyết thúc voi tiến tới, dùng súng đại bác đặt trên lưng voi, phía đuôi voi, bắn trực xạ, phá hủy thành.  Kỵ binh của quân Thanh tiến ra khỏi thành gặp tượng binh của Tây Sơn, liền hoảng sợ bỏ chạy.  Thành bị phá, quân Tây Sơn tràn vào thành đánh cận chiến.  Quân Tây Sơn giỏi võ, rất thiện nghệ về cận chiến, chia quân Thanh thành từng toán nhỏ, rồi tiêu diệt.  Quân Thanh chết rất nhiều.  Số quân Thanh bỏ chạy bị chính địa lôi của họ nổ làm cho thiệt mạng.

Dưới đây là hình ảnh vua Quang Trung trong trận chiến Ngọc Hồi ngày mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu do một người Tây phương lúc đó chạy loạn vì chiến cuộc, chứng kiến và kể lại.

Ngày 30-1 [mồng 5 tháng giêng âm lịch], Quang Trung rời Kẻ Vôi [Hà Hồi] trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa.  Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính Trung Hoa làm rất nhiều người chết về tay ông.  Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu.” (Đặng Phương Nghi dịch, Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ tập san Sử Điạ số 9-10, tr. 224.)

Sau khi hạ đồn Ngọc Hồi, quân Tây Sơn tiếp đánh các đồn quân Thanh ở Văn Điển (Thanh Trì, Thường Tín, Hà Đông), Yên Quyết (ngoại thành Hà Nội).  Quân Thanh thiệt hại nặng,  đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh đều tử trận.

Ngoài ra, một cánh quân Tây Sơn khác đến vây Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn (gò Đống Đa) ở Khương Thượng (ngoại ô Thăng Long).  Sau một hồi chống cự quyết liệt, thế quân Thanh yếu dần, lại không được tiếp ứng; Sầm Nghi Đống biết không có cách gì thoát thân, liền thắt cổ tự tử trên cây đa.  Binh sĩ dưới quyền Sầm Nghi Đống đều tử trận.  (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 225.)

Trong khi đó, được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng Phan Khải Đức (người Việt, trấn thủ Lạng Sơn đầu hàng quân Thanh) đi quan sát tình hình.

Liền trưa hôm đó tức trưa mồng 5 Tết, quân Tây Sơn xuất hiện tại Thăng Long.  Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp và thắng yên cương, đã vội lên ngựa bỏ trốn cùng vài kỵ binh, bỏ lại lại ấn quân, sắc thư, cờ tiết…(Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn, Nxb. Tân Việt, in lần thứ 7, tt. 374-375.)

Sau khi qua khỏi cầu nổi Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt đứt cầu nổi.  (Cao Tông thực lục, bản dịch. tr. 145.), chận đường qua sông.  Đây là lời người Thanh tự thú, còn tài liệu Việt Nam thì cho rằng cầu phao bị gãy.  Số người chết đuối trên song Hồng nhiều không thể đếm hết được.

Lê Chiêu Thống, lúc bấy giờ có mặt trong doanh trại Tôn Sĩ Nghị, liền chạy theo họ Tôn, chỉ kịp sai người về cung, hộ vệ thái hậu cùng hoàng tử vượt sông.  Em vua là Lê Duy Chỉ đưa hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu đã bị chặt đứt, không qua sông được, phải bỏ trốn về hướng tây.

Đề đốc nhà Thanh là Ô Đại Kinh đóng bản doanh ở Phú Thọ (lúc đó thuộc Sơn Tây), được tin Tôn Sĩ Nghị thất trận, nhờ một cựu quan nhà Lê tên là Hoàng Văn Thông hướng dẫn, rút lui trở về lại Vân Nam.

8.-   Hồng Phúc (câu hỏi 8):  Còn kết quả trận đánh thì thế nào anh Phụng?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 8):  Theo Thánh vũ ký, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về hướng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Khi chạy về tới Trấn-nam quan [ải Nam Quan], Tôn Sĩ Nghị “bỏ hết ngoài cửa quan lương thực, khí giới thuốc súng vài mươi vạn (cân).  Quân ta [Thanh] và ngựa trở về không đầy một nửa.” (Thánh vũ ký trong Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.)  Đó là sự ghi nhận của sử liệu Trung Hoa.  Chắc chắn số được trở về nầy có thể thấp hơn, nhưng Thánh vũ ký nâng cao lên đôi chút vì thể diện của nhà Thanh.

Như thế, nếu cánh quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo đi vào từ biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn thấp nhất khoảng 10,000 cùng 10,000 trợ thủ theo sử liệu Trung Hoa, và quân Thanh trở về không đầy một nửa, thì người Thanh (quân và phu) thiệt hại tối thiểu khoảng 10,000 người kể cả một số tướng lãnh nổi tiếng là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh, Sầm Nghi Đống. Đây là theo số iệu của tài liệu nhà Thanh.

Theo ghi nhận trong Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, thì riêng trận Ngọc Hồi – Thăng Long, quân Thanh chết khoảng 10,000 người, trong đó ít nhất một phần ba bị chết đuối vì chen nhau qua cầu khi bỏ chạy và sau đó cầu bị chặt gãy. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ…, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 224.) Số liệu nầy trùng hợp với số liệu của Ngụy Nguyên, người nhà Thanh, trong sách Thánh vũ ký. (trong Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.)  Ngoài ra, tại Đống Đa, quân Thanh tử trận khoảng 1,000 người. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, bđd. tr. 225.)

Trong số quân Thanh mất tích hay tử trận, có một số đã bỏ trốn, trong đó khoảng 800 người ra trình diện với Tây Sơn hay bị quân Tây Sơn bắt, và về sau được vua Quang Trung ra lệnh trả về Trung Hoa.  (Theo thư của vua Quang Trung do Hô Hổ Hầu đem sang nhà Thanh, ĐNCBLT, bd. tập 2, tr. 521.)

Về phía Đại Việt, không có sử liệu Việt nào viết về sự thiệt lại của lực lượng Tây Sơn.  Cũng theo Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, thì lực lượng Tây Sơn thiệt mất khoảng 8,000 quân trong trận Ngọc Hồi -Thăng Long, trong đó có một vị chỉ huy cao cấp là Đô đốc Lân (nhưng không phải nội hầu Phan Văn Lân) mà vua Quang Trung rất thương tiếc.  Nhà vua đã cử hành tang lễ vị đô đốc nầy rất trọng thể trong khi cuộc chiến còn tiếp diễn.

9.-   Hồng Phúc (câu hỏi 9):  Thưa anh Phụng, theo quan điểm của một người viết sử, cuộc đại thắng này đã đem lại cho dân tộc Việt chúng ta những gì?

Trần Gia Phụng (trả lời câu hỏi 9):  Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả, bất cứ một sự kiện lịch sử nào cũng đều để lại cho hậu thế một bài học, huống gì là chiến công lẫy lừng năm Kỷ Dậu 1789.

Xin hãy nói về bài học tích cực tức bài học tốt trước.  Đầu tiên phải ghi nhận đây là một chiến công lẫy lừng trong lịch sử.  Và xin chú ý đây không phải chỉ là chiến thắng của vua Quang Trung trước Tôn Sĩ Nghị mà là chiến thắng của dân tộc Việt Nam đối với quân xâm lược Trung Hoa.  Vua Quang Trung là người lãnh đạo tài ba, đã biết huy động tổng lực dân tộc để chống ngoại xâm  Tôi nhấn mạnh là tổng lực dân tộc vì ngay cả những cựu thần nhà Lê cũng hợp tác với vua Quang Trung chống quân Thanh, từ Nguyễn Thiếp, đến Ngô Thời Nhậm, và các quan chức khác của nhà Lê ít nổi tiếng hơn.  Ngay cả tin tức tình báo cũng phải nhờ dân chúng mách bảo, vua Quang Trung mới có thể định ngày tấn công quân Thanh.

Thứ hai là những nhà lãnh đạo Tây Sơn, từ vua Quang Trung đến các tướng lãnh đều sống chết với quân đội, cùng chiến đấu và cùng chiến thắng.  Phải ghi nhận rõ, thật rõ, là vua Quang Trung và lãnh đạo Tây Sơn đã thực hiện đúng tinh thần binh thư của Trần Hưng Đạo xưa kia, trên dưới một lòng đánh giặc và thắng giặc.

Bài học tiêu cực là bà thái hậu, mẹ của vua Lê Chiêu Thống, đã qua Trung Hoa cầu viện.  Nhà Thanh lợi dụng cơ hội, đem quân xâm lăng Đại Việt.  Sau đó, triều đình vua Lê Chiêu Thống lại hợp tác với Tôn Sĩ Nghị để tái lập vương quyền nhà Lê, vốn đã bất lực.  May mà nhở vua Quang Trung và quân dân Đại Việt đã chiến thắng vẻ vang năm 1789, đánh đuổi quân xâm lược.  Nếu không, người Việt đã bị quân Thanh đô hộ thêm một lần nữa.

Bây giờ, chúng ta hãy đối chiếu với tình hình Việt Nam hiện tại.  Nếu năm 1788, bà thái hậu nhà Lê qua Trung Hoa cầu viện nhà Thanh, thì năm 1950, Hồ Chí Minh cũng qua Trung Hoa cầu viện đảng Cộng Sản Trung Hoa chống Pháp.  Không biết ngày xưa, bà thái hậu đã nói những gì để rước quân Thanh.  Còn ngày nay, khi qua Trung Hoa cầu viện, việc đầu tiên là Hồ Chí Minh đã phải làm kiểm điểm trước Lưu Thiếu Kỳ, xử lý thường vụ đảng CSTH vì lúc đó Mao Trạch Đông qua Liên Xô chúc mừng sinh nhật thứ 70 của Stalin.  Tức là HCM khấu đầu cầu xin quan thầy Trung Cộng giúp đỡ.

Việc Hồ Chí Minh làm kiểm điểm không phải do tài liệu “Mỹ ngụy” bịa đặt ra để bôi lọ Hồ Chí Minh đâu nghe anh Hồng Phúc, mà do Trần Đĩnh, một người trong vòng thân cận với Hồ Chí Minh, đã được một tờ báo ở Nam Cali quảng cáo là người đã “từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh”, gần đây viết ra.  Trần Đĩnh nói rõ rằng Hồ Chí Minh đã  “kiểm thảo, trình bày các cái ta chủ trương và làm, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét…chính sách tiêu thổ kháng chiến toàn bàn của Việt Nam là không cần thiết và lãng phí...” (Trần Đĩnh, Đèn cù, California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.)

Đường đường là chủ tịch một nước, mà lại khấu đầu làm kiểm điểm trước một người vốn thuộc loại kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt.  Thật là nhục hết chỗ nói.  Trong lịch sử, chưa có một ông vua nào qua Tàu, rồi khấu đầu làm kiểm điểm trước một lãnh đạo Tàu cả.  Thế mà nay Hồ Chí Minh, cam tâm làm việc bẩn thỉu nầy.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy quân Trung Hoa qua cứu viện thì lợi dụng cơ hội ở lại luôn Đại Việt.  Ngày nay, Trung Cộng cũng vậy, qua giúp CSVN, rồi cài luôn người trong bộ máy của đảng CSVN, dần dần, đưa Việt Nam vào quỹ đạo Trung Cộng và làm tay sai cho Trung Cộng. Thực dân Pháp đàn áp bóc lột, nhưng không ở luôn Việt Nam.  Trái lại, Tàu cộng qua Việt Nam là kiếm cách ở luôn tại nước ta.  Vì vậy, cầu viện Trung Cộng chống Pháp là một sai lầm nghiêm trọng, nều không muốn nói là ngu xuẩn.  Hậu quả việc cầu viện của Hồ Chí Minh di căn cho đến ngày nay, và dân tộc Việt phải gánh lấy khổ nạn nầy.

Ngoài ra, người Việt Nam và quân đội Việt Nam vốn có truyền thống chống xâm lăng.  Thế mà ngày nay, từ nhà nước CSVN đến quân đội nhân dân CSVN, tự sướng là đã chiến thắng hai đế quốc sừng sỏ Pháp và Mỹ, mà lại im khe, nhục nhã nhìn đất nước đang bị bọn xâm lược Trung Cộng dày xéo, chiếm đảo, chiếm biển, chiếm ải, chiếm đất …

Nói nữa cũng thêm buồn.  Trở lại với chiến công năm 1789, tôi xin thưa với anh Hồng Phúc và quý thính giả nghe đài, chiến công năm 1789 cho thấy dân tộc Việt Nam đủ sức đề kháng chống quân xâm lược Bắc phương nếu nhà cầm quyền Việt Nam quyết tâm và biết cách vận động tổng lực của toàn dân chiến đấu chống xâm lược.

Thưa anh Hồng Phúc, thưa quý thính giả nghe đài, mở đầu câu chuyện hôm nay, tôi đã kể hầu quý vị nghe một chuyện có thật về con gà.  Bây giờ, để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin kể hầu quý vị nghe một chuyện cổ tích ngoại quốc về con gà.  Chuyện kể rằng có một đám cháy rừng xảy ra.  Một con gà thấy thế, chạy ra cái ao gần đó, ngậm từng ngụm nước chạy đến phun để chữa cháy, hết ngụm nầy đến ngụm khác.  Có kẻ bảo con gà điên, vác đá ném trời.  Con gà trả lời: “Tôi biết tôi chẳng chữa được đám cháy, nhưng không lẽ tôi đứng nhìn đồng loại bị thiêu trong đám cháy, mà không làm gì.  Tôi cố gắng hết sức mình, được chừng nào thì được.”

Vâng, nhân dịp năm mới, năm con gà Đinh dậu, chúng ta hãy làm những công việc dù nhỏ nhoi như con gà cổ tích kia, nhưng thiết thực tiếp tay với phong trào tranh đấu đòi hỏi dân chủ ở trong nước, góp phần được chừng nào hay chừng ấy ủng hộ đồng bào quốc nội, nhằm giải thể chế độ CSVN.  Chẳng những đàn áp dân chủ, CSVN đang càng ngày càng lệ thuộc Trung Cộng.  Không lẽ chúng ta vô cảm làm ngơ, ngồi nhìn đất nước suy vong.  Tôi tin rằng nếu chúng ta cùng nhau hợp lực, thì chúng ta sẽ làm được nhiều việc hơn con gà cổ tích.  Điều chắc chắn là chúng ta sẽ làm giảm tuổi thọ của CSVN, sớm giải thể chế độ độc tài đảng trị, và chống lại hiểm họa Trung Cộng xâm lăng, để tương lai dân tộc chúng ta sớm được tươi sáng hơn.

Xin cảm ơn anh Hồng Phúc đã phỏng vấn, xin cảm ơn quý vị thính giả đã theo dõi.  Xin kính chào và kính chúc toàn thể quý vị một NĂM MỚI AN VUI.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 26-01-2017)

Đàm Trung Phán

Những bài viết .....

VIETNAMESE HISTORY AND CULTURE RESEARCH INSTITUTE

Viện Nghiên Cứu Lịch Sử và Văn Hoá Việt Nam - Giấy Phép Hoạt Động C4286523 và EIN84-3284370

Mây Bắc Mỹ

Just for leisure!

Miomie

Drawing - Reading - Writing

Cuộc Sống

Niềm Tin Và Hy Vọng

Hội Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People Memorial Association

Hội Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People Memorial Association

Việt Nam

Việt Nam

Kiếm tiền online

Kiếm tiền tại nhà hàng ngày . các cách kiếm tiền free online

Shop Mỹ Phẩm - Nước Hoa

Số 7, Lê Văn Thịnh,Bình Trưng Đông,Quận 2,HCM,Việt Nam.

Công phu Trà Đạo

Trà Đạo là một nghệ thuật đòi hỏi ít nhiều công phu

tranlucsaigon

Trăm năm trong cõi người ta...

Nhạc Nhẽo

Âm thanh.... trong ... Tịch mịch !!!

~~~~ Thơ Thẩn ~~~~

.....Chỗ Vơ Vẩn

Nguyễn Đàm Duy Trung's Blog

Trang Thơ Nguyễn Đàm Duy Trung